Hôm nay cô sẽ kể một câu chuyện nhỏ trong chùa, rồi từ đó dẫn vào Toán học nhé.
Trong một ngôi chùa nhỏ, sư thầy thường giao cho các chú tiểu nhiệm vụ buổi sáng:
quét sân
lau tượng
tưới cây
cho mèo ăn
Một hôm thầy hỏi:
“Trong bốn việc con làm mỗi ngày, việc nào con làm bằng tâm chánh niệm nhất?”
Các chú tiểu trả lời khác nhau. Thầy mỉm cười:
“Những việc con làm mỗi ngày giống như một tập hợp.
Trong tập hợp đó, con phải biết phần tử nào làm con trưởng thành nhất.”
Và từ đây cô bắt đầu dạy…
Trong Toán học lớp 6:
Tập hợp là một nhóm các đối tượng có cùng đặc điểm.
Các đối tượng trong tập hợp gọi là phần tử.
Giống như:
Tập hợp các việc làm mỗi sáng của chú tiểu
Tập hợp các ngày ăn chay trong tuần
Tập hợp những đêm rằm trong tháng
Toán học nhìn đời rất giống Phật pháp:
✔ Phật pháp gom sự vật theo “pháp số”
✔ Toán học gom sự vật theo “tập hợp”
Có 2 cách:
(1) Liệt kê phần tử
(2) Chỉ ra tính chất
a) Liệt kê phần tử
Tập hợp A gồm 4 việc làm mỗi sáng:
A = {quét sân, lau tượng, tưới cây, cho mèo ăn}
b) Viết theo tính chất
A = {các công việc buổi sáng của chú tiểu}
Trong chùa, thầy hay dạy:
“Không việc nào nhỏ, chỉ có tâm làm lớn.”
Trong toán:
✔ một phần tử được thuộc tập hợp → ta ký hiệu:
a ∈ A
✔ một phần tử không thuộc tập hợp → ta ký hiệu:
a ∉ A
“tưới cây” ∈ A
“tụng kinh chiều” ∉ A (vì không thuộc công việc buổi sáng)
G = {không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu}
“không sát sinh” ∈ G
“ăn chay” ∉ G (thuộc phạm hạnh khác)
C = {mùng 1, mùng 8, ngày 14, ngày rằm}
ngày rằm ∈ C
ngày 18 ∉ C
Viết tập hợp B gồm các mùa an cư của năm: xuân, hạ, thu, đông.
Cho tập hợp C = {mèo chùa, chó chùa, chim sẻ}.
Hỏi “hổ” có thuộc C không?
Viết theo tính chất:
M = {1, 4, 9, 16}
Gợi ý: đây là tập hợp “pháp số” đẹp của các bình phương.
Toán học dạy ta quan sát rõ ràng.
Phật pháp dạy ta quan sát bằng tâm trong.
Khi gom các sự vật vào “tập hợp”, ta đang học cách:
✔ thấy rõ
✔ phân minh
✔ không lẫn lộn
✔ không phán xét
✔ chỉ ghi nhận đúng bản chất
Giống như người tu ghi nhận hơi thở, không thêm bớt.
Cô lại kể chuyện trước khi vào bài toán nhé.
Một chú sa-di hỏi sư thầy:
“Thầy ơi, vì sao con phải đếm từng hơi thở?
Không phải hơi thở thì vô lượng sao?”
Sư thầy cười:
“Muốn thấy vô lượng, con phải bắt đầu từ… một.
Không có số 1, thì không thể có 2, 3, 4, hay… vô số.”
Và đó chính là điều mà Toán lớp 6 bắt đầu dạy con hôm nay:
Số tự nhiên.
Số tự nhiên là các số dùng để:
đếm
liệt kê
ghi số thứ tự
Tập hợp các số tự nhiên:
N = {0, 1, 2, 3, 4, 5, …}
Trong chùa, người ta đếm:
số cây bồ đề trồng trong sân
số quyển kinh trong kệ
số ngày tu tập
số buổi thiền hành
Tất cả đều dùng số tự nhiên.
0 → 1 → 2 → 3 → …
Giống như người tu:
không thể nhảy từ phàm → thánh
mà phải đi từng bước: thân → khẩu → ý.
Giống như:
lòng từ bi là vô hạn
sự tu tập là vô hạn
số kiếp sống luân hồi… cũng vô hạn
Toán học và Phật pháp gặp nhau ở ngay chữ “vô lượng”.
0 và 1 cách nhau 1
1 và 2 cách nhau 1
Tâm tu cũng vậy:
Không cần nhảy vọt
Chỉ cần tiến 1 bước mỗi ngày.
Trong chùa, chú tiểu được giao đếm:
3 chậu sen trước sân
7 viên gạch thầy đặt để xây hồ sen
9 nén hương dài trong bình
Vậy:
3 < 7 < 9
So sánh số chính là thấy rõ:
✔ cái nào nhiều hơn
✔ cái nào ít hơn
✔ cái nào bằng nhau
Y như phân biệt thiện – bất thiện trong Tâm học.
Số liền trước của 8 là 7
Số liền sau của 8 là 9
Ví dụ trong chùa:
Ngày rằm (15) → liền trước là 14
Ngày rằm (15) → liền sau là 16
Thấy số liền trước, liền sau = thấy “nhân duyên trước sau”.
Chú tiểu có 12 hoa sen để cúng Phật.
Thầy cho thêm 1 hoa.
→ số hoa sen liền sau 12 là: 13
Một khóa thiền hành có 20 người.
3 người rời khỏi hàng để nghỉ.
→ 20 > 17
→ 17 < 20
Tập các ngày trai giới trong tháng:
A = {1, 8, 14, 15}
Số lớn nhất: 15
Số nhỏ nhất: 1
Viết 10 số tự nhiên liên tiếp bắt đầu từ 5.
Trong hội chúng có 48 người.
Sau thời thiền, thêm 2 người đến.
Hỏi số người có lớn hơn 50 không?
Viết số liền trước và liền sau của các số:
a) 100 b) 0 c) 27
Tập hợp B gồm các số:
B = {1, 3, 5, 7, 9}
Hãy cho biết: 8 có thuộc B không?
Vì sao?
Số tự nhiên giống như con đường tu:
✔ bắt đầu từ số nhỏ nhất
✔ đi từng bước, không vội
✔ đi mãi sẽ tới vô hạn
✔ không ai cản bước mình ngoài chính mình
Khi con hiểu số tự nhiên là con hiểu nền tảng của mọi phép tính sau này.
Trước khi bắt đầu, cô kể một câu chuyện của chú tiểu và giỏ xoài trước cổng chùa.
Một buổi sáng, chú tiểu thấy một người dân đem biếu chùa 12 trái xoài.
Chú hoan hỷ nhận và để vào giỏ.
Một lát sau, có ba đứa trẻ nghèo đi ngang, nhìn giỏ xoài với ánh mắt thèm thuồng.
Chú liền lấy ra 3 trái cho các em.
Sư thầy thấy vậy, mỉm cười nói:
“Con vừa thực hành một phép toán rất đẹp:
12 – 3 = 9
Nhưng điều đẹp nhất không phải số 9,
mà là tâm biết chia sẻ.”
Và từ đó, cô dẫn con vào bài: Cộng – Trừ số tự nhiên.
a + b = tổng
Trong đời sống tu tập:
thêm một lần tụng kinh
thêm một ngày giữ giới
thêm một nụ cười hiền
Tất cả đều là phép cộng trong tâm.
Sư thầy có 25 quyển kinh.
Chú tiểu sắp thêm 5 quyển nữa.
→ 25 + 5 = 30 quyển
Một bàn thờ có 2 cây nến.
Cô thêm 1 cây nữa cho sáng hơn.
→ 2 + 1 = 3
Phép cộng làm cho ánh sáng tăng lên, cũng như việc thiện tăng lên.
a – b = hiệu
Trong Phật pháp, bớt:
tham
sân
si
nóng nảy
ích kỷ
… chính là “phép trừ tâm linh”.
Trong hộp có 18 hạt chuỗi.
Cô làm rơi mất 2 hạt.
→ 18 – 2 = 16
12 – 3 = 9
Phép trừ đôi khi làm ta “ít lại”, nhưng tâm lại “đủ hơn”.
a + b = b + a
Ví dụ:
tụng 3 biến chú Đại Bi + 1 biến Lăng Nghiêm
= tụng 1 + 3
= vẫn 4 biến
(a + b) + c = a + (b + c)
Giống như:
(con + tâm thiện + chánh niệm)
= (con + chánh niệm + tâm thiện)
= vẫn tạo ra sự bình an.
10 – 2 ≠ 2 – 10
(đây là quy luật “nhân quả không đảo chiều”).
5 chú tiểu nhổ cỏ sau chùa.
3 chị Phật tử đến hỗ trợ.
→ 5 + 3 = 8
Chùa có 40 người dự lễ sáng.
10 người phải về sớm.
→ 40 – 10 = 30
Trên bàn thờ có 7 ngọn đèn.
Cô tắt bớt 2 ngọn để tiết dầu.
→ 7 – 2 = 5
Một lớp học giáo lý có 32 người.
Có thêm 4 người đến trễ.
Hỏi lớp có bao nhiêu người?
Giỏ trái cây có 15 quả.
Chú tiểu đem 6 quả biếu người nghèo.
Còn lại bao nhiêu quả?
Tính nhanh bằng cách nhóm số:
a) 10 + 5 + 20
b) 7 + (13 + 10)
Tập A = {1, 3, 5, 7}
Tập B = {2, 4, 6}
Nếu cộng một số từ A với một số từ B, tổng của chúng là số chẵn hay lẻ?
Toán học dạy con “cách tính”.
Phật pháp dạy con “cách sống”.
Cộng để nuôi lớn điều thiện.
Trừ để buông bớt điều xấu.
Tổng – hiệu không chỉ nằm trên giấy,
mà còn nằm trong từng hơi thở và hành động.
Hôm nay cô kể chuyện về… những chiếc bát trong trai đường chùa.
Mỗi trưa, chú tiểu phải chuẩn bị bát cho đại chúng.
Một ngày nọ, sư thầy nói:
“Hôm nay có 4 nhóm khách,
mỗi nhóm 6 người.
Con hãy chuẩn bị đủ bát nhé.”
Chú tiểu liền nghĩ:
4 nhóm × 6 người = 24 người.
Vậy cần 24 chiếc bát.
Sư thầy mỉm cười:
“Đó chính là phép nhân.
Nhìn sâu thì:
nhân = nhiều lần lên,
chia = bớt lần đi.”
Và từ đây ta bước vào phép nhân – chia.
a × b = a được lấy b lần.
Ví dụ chú tiểu:
6 bát × 4 nhóm = 24 bát
→ 6 được lấy 4 lần.
Sư thầy tụng 3 biến kinh mỗi buổi.
Trong 5 buổi liên tiếp, thầy tụng:
3 × 5 = 15 biến
Tụng bao nhiêu biến không quan trọng bằng tâm an tĩnh khi tụng — nhưng con vẫn phải biết tính nhé.
a : b = chia số a thành b phần bằng nhau.
Có 20 bánh bao chia cho 5 chú tiểu:
20 : 5 = 4 cái mỗi chú
Hay:
Sư thầy muốn chia 18 cây nến thành từng bó 3 cây:
18 : 3 = 6 bó
Hai phép này như hơi thở:
hít vào → nhân
thở ra → chia
Luôn đi cùng nhau.
a × b = c
thì
c : b = a
và
c : a = b
4 × 6 = 24
→ 24 : 6 = 4
→ 24 : 4 = 6
a × b = b × a
Ví dụ:
4 nhóm × 6 người = 6 người × 4 nhóm = 24
(a × b) × c = a × (b × c)
a × 1 = a
(giống như niệm 1 câu Phật hiệu đúng chánh niệm, đủ làm sáng cả tâm)
a × 0 = 0
(Nghĩa là: không làm → không có kết quả)
(giống như “quay về chính mình”)
Vì chia cho 0 chẳng khác nào hỏi:
“Thầy ơi, chia 10 quả xoài vào… 0 cái rổ được không?”
Thầy cười:
“Vậy xoài rơi xuống đất hết rồi!”
Có 8 bình hoa.
Mỗi bình cắm 5 bông sen.
→ 8 × 5 = 40 bông
Có 27 oản chia đều cho 9 người:
→ 27 : 9 = 3 oản mỗi người
Một pháp hội kéo dài 7 ngày.
Mỗi ngày tụng 108 lần danh hiệu Phật.
→ 7 × 108 = 756 lần
Một ngôi chùa có 12 dãy đèn lồng.
Mỗi dãy treo 4 chiếc.
Hỏi có tất cả bao nhiêu đèn?
36 bánh chay chia đều vào 6 rổ.
Mỗi rổ có bao nhiêu bánh?
Điền số thích hợp:
a) 9 × … = 45
b) … : 5 = 6
c) 7 × … = 28
Một nhóm tu thiền có 11 người.
Mỗi người ngồi 3 lần thiền định mỗi ngày.
Trong 10 ngày, nhóm thực hiện bao nhiêu lần thiền?
Nhân – Chia không chỉ là phép tính,
mà còn là hai nhịp của cuộc sống:
✔ Nhân lên điều thiện
✔ Chia bớt điều xấu
✔ Nhân công đức
✔ Chia sẻ tình thương
✔ Nhân sự tinh tấn
✔ Chia đi sự ích kỷ
Toán học và đạo hạnh luôn song hành – chỉ cần con nhìn kỹ là thấy.
Hôm nay cô kể một câu chuyện rất nhỏ…
về một hạt bồ đề rơi xuống sân chùa.
Một hôm, chú tiểu quét sân và nhặt được một hạt bồ đề.
Chú hỏi sư thầy:
“Thầy ơi, một hạt thì chắc chắn nhỏ.
Nhưng nếu con trồng, nó có thể thành bao nhiêu cây ạ?”
Thầy đáp:
“Một hạt, nếu chăm sóc đúng,
ngày mai sẽ thành 1 cây,
rồi cây cho 5 hạt,
5 hạt cho 25 hạt,
25 hạt cho 125 hạt…
Đó chính là luỹ thừa trong Toán học.”
Cô mỉm cười:
“Luỹ thừa là cách Toán học mô tả sự sinh sôi y như nhân quả.”
Một số a nhân với chính nó n lần:
a × a × a × … (n lần)
được viết thành:
👉 aⁿ
Trong đó:
a gọi là cơ số
n gọi là số mũ
3 × 3 × 3 = 3³ = 27
5 × 5 = 5² = 25
2 × 2 × 2 × 2 = 2⁴ = 16
Nếu gieo một hạt thiện:
Một lời tử tế → 1 người vui
Nhưng người đó làm vui thêm 3 người → 3¹
3 người đó làm vui thêm những người khác → 3², 3³, 3⁴ …
Cũng giống như:
một niệm thiện → sinh vô lượng thiện.
Luỹ thừa = tăng trưởng theo cấp số nhân.
Đó là lý do người xưa dạy:
“Gieo một, gặt mười;
gặt mười, lại hóa trăm.”
Toán học gọi là:
1 → 10 → 100
= 10⁰ → 10¹ → 10²
2¹ = 2
2² = 4
2³ = 8
2⁴ = 16
2⁵ = 32
(giống như số lượng ngọn nến trên sân lễ lớn cứ nhân đôi)
10¹ = 10
10² = 100
10³ = 1 000
10⁴ = 10 000
(Rất quan trọng khi học số lớn)
(giống như khởi đầu nào cũng về “một tâm”)
(số mũ cộng nhau)
(số mũ trừ nhau)
(số mũ nhân nhau)
Mỗi buổi lễ thỉnh 3 tiếng chuông.
Trong 4 buổi:
3⁴? Không.
Vì chú thỉnh 3 tiếng dùng cộng, không dùng nhân.
Nhưng nếu mỗi ngày thêm gấp đôi số lần thỉnh:
Ngày 1: 1 lần
Ngày 2: 2 lần
Ngày 3: 4 lần
Ngày 4: 8 lần
→ 2³ = 8
Đó mới là luỹ thừa.
Một cây cho 5 hạt.
Mỗi hạt lại sinh 5 hạt nữa.
2 thế hệ → 5² = 25
3 thế hệ → 5³ = 125
Ngày 1: con giúp 1 người
Ngày 2: con giúp 2 người
Ngày 3: con giúp 4 người
Ngày 4: con giúp 8 người
→ 2³ = 8
Viết dưới dạng luỹ thừa:
a) 2 × 2 × 2
b) 7 × 7
c) 10 × 10 × 10 × 10
Tính:
a) 3²
b) 5³
c) 2⁵
Dùng tính chất luỹ thừa:
a) 2³ × 2⁴
b) 10⁵ ÷ 10²
c) (3²)³
Một pháp hội mở rộng theo quy luật:
Ngày 1 có 3 người
Ngày 2 gấp 3
Ngày 3 lại gấp 3
Hỏi ngày thứ 4 có bao nhiêu người?
(gợi ý: 3³ × 3)
Luỹ thừa dạy con:
✔ Một hạt nhỏ có thể thành cả khu rừng
✔ Một ý thiện có thể thành biển công đức
✔ Một số nhỏ, nhân mãi sẽ thành vô lượng
Trong Toán, đó là aⁿ.
Trong Đạo, đó là nhân – duyên – quả.
Hôm nay cô kể con nghe chuyện ba chú tiểu xây hàng rào quanh ngôi chùa nhỏ trên đồi.
Ngôi chùa trên đỉnh đồi có khu vườn thiền tĩnh lặng.
Một hôm, sư thầy giao nhiệm vụ:
“Ba con hãy xây một hàng rào quanh vườn.
Đầu tiên, phải đo độ dài cho đúng,
nếu không hàng rào sẽ lệch,
giống như tâm không chánh niệm thì bước chân cũng lệch.”
Ba chú tiểu bán tín bán nghi:
“Sao phải đo kỹ vậy thầy?”
Sư thầy cười:
“Trong đời sống, đo sai một chút sẽ lệch cả đoạn.
Trong tu hành, lệch một niệm sẽ xa cả bờ giác.”
Và thế là câu chuyện dẫn con vào bài hôm nay:
Đo độ dài.
Độ dài là khoảng cách giữa hai điểm.
Ta dùng để đo:
chiều dài sảnh chùa
chiều cao cột cờ
độ rộng hành lang thiền
quãng đường thiền hành
Đó là Toán học.
Nhưng trong chùa, con thấy:
✔ bước chân dài hay ngắn đều nói lên tâm mình lúc đó
✔ đo độ dài cũng như đo sự chánh niệm
Các đơn vị từ bé → lớn:
mm < cm < dm < m < dam < hm < km
nhỏ nhất là sát-na
rồi hơi thở
rồi phút thiền
rồi giờ thiền
rồi ngày an cư
Mọi thứ đều có thứ bậc.
Mỗi bậc liền nhau gấp 10 lần.
1 m = 10 dm
1 dm = 10 cm
1 cm = 10 mm
1 km = 1 000 m
Nghĩa là cứ “nhảy một bậc” thì nhân hoặc chia 10.
Hành lang thiền dài 25 m.
Sư thầy bảo: “Đo xem bao nhiêu cm”.
25 m = 25 × 100 = 2 500 cm
Một cây cờ phướn cao 8 m.
Treo thêm tua dài 40 cm.
8 m = 800 cm
→ tổng chiều cao = 840 cm
Ba chú đo được cạnh sân:
12 m + 8 m + 12 m + 8 m = 40 m hàng rào.
Sư thầy dạy:
“Mỗi bước con đi 60 cm.
Đi 100 bước là một vòng.
Hãy tính xem mỗi vòng bao nhiêu mét?”
60 cm × 100 bước = 6 000 cm = 60 m
Một vòng thiền hành là 60 m.
Đi 10 vòng là:
60 × 10 = 600 m
Đổi đơn vị:
a) 3 m = … cm
b) 450 cm = … m
c) 7 km = … m
Một con đường vào chùa dài 1,2 km.
Tính độ dài theo mét.
Hành lang chùa dài 15 m.
Bạn An đi mỗi bước 50 cm.
Hỏi đi hết hành lang cần bao nhiêu bước?
Sân thiền hình chữ nhật:
chiều dài: 18 m
chiều rộng: 12 m
Hỏi chu vi sân thiền là bao nhiêu?
(Chu vi = (dài + rộng) × 2)
Đo độ dài không chỉ để xây hàng rào cho thẳng,
mà còn để thấy rõ:
✔ mọi thứ đều có giới hạn
✔ biết giới hạn thì không làm quá
✔ chánh niệm cũng cần “đo lường”
✔ bước chân thiền cũng cần đúng nhịp
Toán học giúp con thấy độ dài ngoài thân,
Phật pháp giúp con thấy độ dài của vọng tưởng trong tâm.
Hôm nay cô kể con nghe chuyện một buổi sáng ở kho gạo chùa.
Một bác Phật tử đem đến cúng dường chùa 3 bao gạo.
Mỗi bao gạo được may kín, nhìn bao nào cũng giống nhau.
Bác nói:
“Thầy ơi, con không rành cân đo.
Mỗi bao chắc khoảng 50 kg đó thầy.”
Sư thầy cười hiền:
“Nói ‘khoảng’ thì tâm dễ sai.
Phải đo cho đúng…
cũng như tu tập phải rõ ràng, không phỏng đoán.”
Thầy gọi chú tiểu lại:
“Con cân từng bao đi.
Vì khối lượng là thứ không thể nhìn mà biết.”
Và thế là bài học hôm nay bắt đầu…
Khối lượng cho biết một vật nặng hay nhẹ.
Ta đo bằng cân, chứ không đo bằng mắt.
Dù vật nhỏ có thể nặng, vật to có thể nhẹ.
Giống như người tu:
✔ xem dáng vẻ thì không biết tâm nặng hay nhẹ
✔ chỉ khi quan sát kỹ mới biết “gánh phiền não” của ai nhiều
Các đơn vị chuẩn:
mg (miligam)
g (gam)
kg (kilogam)
tấn
Thứ tự từ bé đến lớn:
mg < g < kg < tấn
Mỗi đơn vị liền kề nhau gấp 1000 lần.
3 kg = 3000 g
500 g = 0,5 kg
2 tấn = 2000 kg
Ba bao gạo có khối lượng:
bao 1: 48 kg
bao 2: 50 kg
bao 3: 52 kg
Hỏi tổng khối lượng?
48 + 50 + 52 = 150 kg
Cô làm bánh bao chay:
300 g bột mì + 100 g đường.
→ tổng: 400 g
Sư thầy đong 3 lần, mỗi lần 250 g thóc.
3 × 250 = 750 g = 0,75 kg
Sư thầy dạy chú tiểu:
“Một người có thân thể nhẹ mà tâm nặng,
là vì ôm quá nhiều sân hận.”
Trong Toán:
vật nặng → khối lượng lớn
vật nhẹ → khối lượng nhỏ
Trong Đạo:
tâm nhẹ → an lạc
tâm nặng → phiền muộn
Khối lượng vật chất đo bằng cân.
Khối lượng tâm đo bằng… hơi thở tỉnh giác.
Đổi đơn vị:
a) 5 kg = … g
b) 850 g = … kg
c) 2,5 kg = … g
Một thùng đậu nành nặng 12 kg.
Đổ bớt 3 kg cho phòng bếp.
Hỏi thùng còn bao nhiêu kg?
Một sư cô làm 4 mẻ bánh, mỗi mẻ cần 250 g bột.
Hỏi tổng lượng bột cần?
Một đoàn từ thiện chuẩn bị 1 tấn gạo để phát cho người nghèo.
Đã phát 450 kg.
Hỏi còn lại bao nhiêu kg?
Đo khối lượng nhắc con:
✔ chuyện gì cũng cần chính xác
✔ đừng đo bằng cảm tính
✔ cái nặng – nhẹ của vật có cân đo
✔ cái nặng – nhẹ của tâm thì phải tự soi
Chú tiểu học Toán để đo gạo,
nhưng học Đạo để đo… chính mình.
Hôm nay cô dẫn con đến trước đại hồng chung của chùa – chiếc chuông lớn được thỉnh mỗi buổi sáng, âm vang lan đi khắp núi rừng.
Mỗi sáng tinh mơ, chú tiểu được giao thỉnh chuông.
Chú hỏi sư thầy:
“Thầy ơi, con thỉnh chuông lúc nào?
Con nghe tiếng gà gáy rồi đi đánh có được không?”
Sư thầy lắc đầu:
“Không được đâu con.
Đánh sớm thì đại chúng chưa dậy,
đánh muộn thì trễ giờ công phu.
Muốn đúng thời, phải biết đo thời gian.”
Vậy là chú bắt đầu học cách xem giờ, phân biệt phút – giây – giờ.
Và đó cũng là bài học hôm nay.
Thời gian là khoảng trôi qua của sự việc:
thời gian tụng kinh
thời gian thỉnh chuông
thời gian nấu cơm
thời gian thiền hành
thời gian làm công quả
Phật pháp nói:
“Thời gian trôi như dòng nước, không bao giờ dừng lại.”
Toán học giúp con đo được dòng ấy.
Các đơn vị quen thuộc:
giây (s)
phút (phút = 60 s)
giờ (1 giờ = 60 phút)
ngày (1 ngày = 24 giờ)
tuần (1 tuần = 7 ngày)
tháng – năm
Ví dụ:
5 phút = 5 × 60 = 300 giây
2 giờ = 120 phút
3 ngày = 72 giờ
Mỗi buổi sáng, chú tiểu thỉnh chuông lúc 4 giờ 30 phút.
Chú cần chuẩn bị trước 10 phút.
→ Chú phải dậy lúc:
4 giờ 30 – 10 phút = 4 giờ 20 phút
Thời kinh sáng kéo dài 45 phút.
Bắt đầu lúc 5 giờ.
Kết thúc lúc:
5 giờ + 45 phút = 5 giờ 45 phút
Một vòng thiền hành mất 6 phút.
Đi 5 vòng:
6 × 5 = 30 phút
Sư thầy dạy:
“Thời gian bên ngoài có thể đo bằng đồng hồ,
nhưng thời gian trong tâm đo bằng… mức độ vội vàng.”
Một giờ ngồi thiền mà tâm bất an
→ cảm giác rất dài.
Mười phút làm việc thiện mà tâm hoan hỷ
→ thấy rất ngắn.
Toán học đo thời gian vật lý.
Phật pháp đo thời gian tâm lý.
Cả hai đều quan trọng.
Đổi đơn vị:
a) 3 phút = … giây
b) 2 giờ = … phút
c) 48 giờ = … ngày
Một buổi pháp thoại kéo dài 1 giờ 20 phút.
Bắt đầu lúc 8 giờ.
Hỏi kết thúc lúc mấy giờ?
Ngồi thiền 15 phút mỗi buổi.
Một ngày ngồi 3 buổi.
Hỏi tổng thời gian ngồi thiền trong ngày?
Một khóa tu kéo dài 7 ngày.
Mỗi ngày có 2 thời thiền, mỗi thời 40 phút.
Tính tổng thời gian thiền trong cả khóa.
Đo thời gian giúp con:
✔ biết khi nào nên làm việc gì
✔ không trễ giờ công phu
✔ không vội, không gấp
✔ làm chủ nhịp sống
✔ trân quý từng khoảnh khắc
Thời gian đi qua không bao giờ trở lại,
nên mỗi giây đều là cơ hội để tỉnh thức.
Hôm nay cô kể con nghe chuyện một buổi lát gạch sân chùa của thầy trò trên núi.
Sân chùa bị mưa nhiều năm làm bong tróc.
Sư thầy gọi ba chú tiểu đến và bảo:
“Các con hãy đo sân để lát lại gạch.
Muốn mua gạch đủ thì phải tính chu vi và diện tích.”
Một chú hỏi:
“Thầy ơi, sao phải tính kỹ vậy?
Chúng con mua dư một chút được mà.”
Sư thầy hiền từ đáp:
“Làm việc gì cũng nên rõ ràng.
Tính dư là lãng phí –
lãng phí chính là thiếu chánh niệm.
Toán học dạy con chính xác,
Phật pháp dạy con tiết kiệm và biết đủ.”
Và thế là bài học bắt đầu…
Hình chữ nhật có:
2 cạnh dài bằng nhau
2 cạnh rộng bằng nhau
4 góc vuông
Trong chùa, rất nhiều chỗ có hình chữ nhật:
sân thiền
phòng tụng kinh
bàn thờ
nền nhà
vườn rau
Chu vi = tổng độ dài các cạnh bao quanh hình.
Công thức:
👉 Chu vi = (dài + rộng) × 2
Sân chùa dài 18 m, rộng 12 m.
Chu vi:
(18 + 12) × 2
= 30 × 2
= 60 m
(đây là độ dài hàng rào hoặc đường đi vòng quanh sân)
Diện tích = phần đất (hoặc phần mặt phẳng) mà hình chiếm.
Công thức:
👉 Diện tích = dài × rộng
Sân chùa dài 18 m, rộng 12 m.
Diện tích:
18 × 12 = 216 m²
(đây là số mét vuông cần lát gạch)
Dài 10 m, rộng 6 m.
Chu vi = (10 + 6) × 2 = 32 m
Diện tích = 10 × 6 = 60 m²
Dài 8 m, rộng 5 m.
Chu vi = (8 + 5) × 2 = 26 m
Diện tích = 40 m²
Dài 12 m, rộng 9 m.
Diện tích = 12 × 9 = 108 m²
Nếu một viên gạch có diện tích 0,25 m²
→ Số gạch cần = 108 : 0,25 = 432 viên
Sư thầy dạy:
“Chu vi giống như giới.
Nó bao quanh để giữ con không vượt ra ngoài.
Diện tích giống như tâm con.
Tâm rộng thì chứa được nhiều an lạc.”
✔ Chu vi → giới hạn
✔ Diện tích → nội dung
Một người có giới đức giữ vững,
thì tâm mới có “diện tích” đủ rộng để chứa bình an.
Một sân hình chữ nhật dài 14 m, rộng 9 m.
Tính chu vi và diện tích.
Một phòng học giáo lý dài 12 m và rộng 7 m.
Chu vi phòng là bao nhiêu?
Một bàn thờ hình chữ nhật diện tích 120 cm², chiều rộng 8 cm.
Tính chiều dài bàn.
Sân chùa có diện tích 300 m².
Mỗi viên gạch nhỏ có diện tích 0,2 m².
Hỏi cần bao nhiêu viên gạch để lát kín sân?
Học cách tính chu vi và diện tích, con sẽ:
✔ đo được hình dạng của không gian
✔ tránh tính sai khi mua vật liệu
✔ không lãng phí, không thiếu hụt
✔ làm việc như người tu – cẩn trọng và chánh niệm
Toán học dạy con phép tính,
Phật pháp dạy con thái độ làm việc.
Hai thứ ấy đi chung thì con làm gì cũng đẹp.
Hôm nay cô kể một câu chuyện nhẹ nhàng về việc đóng khung một bức tranh Phật trong chánh điện.
Một ngày, chùa nhận được bức tranh vẽ Đức Phật rất đẹp do một Phật tử cúng dường.
Sư thầy gọi chú tiểu đến:
“Con hãy đóng cho thầy một cái khung để treo tranh.
Thầy muốn khung hình vuông – cho cân đối, trang nghiêm.”
Chú tiểu liền hỏi:
“Sao phải là hình vuông ạ?”
Sư thầy mỉm cười:
“Vì hình vuông tượng trưng cho sự vững vàng – bình đẳng – không nghiêng lệch.
Cũng như tâm tu của mình vậy.”
Để đóng được khung, chú phải biết cách tính chu vi và diện tích của hình vuông.
Thế là bài học bắt đầu…
Hình vuông có:
4 cạnh bằng nhau
4 góc vuông
Chiều dài = chiều rộng
Đó là hình học tượng trưng cho:
✔ sự ngay thẳng
✔ sự cân bằng
✔ tâm không dao động
Trong chùa, nhiều vật là hình vuông:
đế đèn thờ
bệ tượng
khăn lót bàn thờ
nền gạch sân
khung tranh treo tường
Chu vi = tổng độ dài đường bao quanh hình.
Vì 4 cạnh đều bằng nhau:
👉 Chu vi = cạnh × 4
Một khung hình vuông cạnh 25 cm.
Chu vi = 25 × 4 = 100 cm
Đây là số centimet gỗ cần để làm viền khung.
Diện tích = phần mặt phẳng hình chiếm.
Công thức:
👉 Diện tích = cạnh × cạnh = cạnh²
Cạnh hình vuông là 20 cm.
Diện tích = 20 × 20 = 400 cm²
Đây là diện tích tranh sẽ được đặt vào khung.
Cạnh: 30 cm
Chu vi = 30 × 4 = 120 cm
Diện tích = 30 × 30 = 900 cm²
Đế đèn là hình vuông cạnh 15 cm.
Diện tích = 15² = 225 cm²
Khăn bàn thờ hình vuông cạnh 1 m.
Chu vi = 1 × 4 = 4 m
Sư thầy dạy:
“Hình vuông bốn mặt bằng nhau,
giống như bốn tâm vô lượng:
Từ – Bi – Hỷ – Xả đều phải ngang bằng.
Chỉ cần thiếu hay lệch một tâm,
thì đời sống sẽ không còn vuông vức.”
Toán học cho con hình vuông của hình dạng.
Phật pháp cho con hình vuông của tâm hạnh.
Một hình vuông có cạnh 12 cm.
Tính chu vi và diện tích.
Một tấm khăn vuông có diện tích 256 cm².
Tính độ dài cạnh khăn.
Khung ảnh cạnh 40 cm.
Chu vi khung ảnh là bao nhiêu?
Sân gạch vuông cạnh 20 m.
Diện tích sân là bao nhiêu?
Nếu mỗi viên gạch vuông cạnh 0,5 m, cần bao nhiêu viên để lát kín sân?
Hình vuông dạy con:
✔ sự ngay thẳng
✔ sự cân bằng
✔ sự bình đẳng
✔ sự không nghiêng lệch
Một chiếc khung tranh vuông đẹp,
cũng như một tâm hiền hòa,
cả hai đều khiến không gian trở nên an tĩnh.
Hôm nay cô kể con nghe chuyện một buổi dựng mái che trong sân chùa để che mưa cho đại chúng khi tụng kinh ngoài trời.
Ngày ấy, chùa tổ chức khóa tu đông người.
Dự báo có thể mưa nhẹ nên sư thầy dặn ba chú tiểu:
“Các con dựng một mái che bằng vải bạt.
Cạnh mái nên làm hình bình hành để nước mưa dễ chảy xuống.”
Một chú gãi đầu:
“Thầy ơi, sao không làm hình chữ nhật?
Hình bình hành nhìn… nghiêng nghiêng.”
Sư thầy cười hiền:
“Nghiêng nhưng vẫn vững,
xiêu nhưng không đổ.
Hình bình hành giống như người tu:
Dù gặp mưa nắng cuộc đời
vẫn đứng vững với tâm chánh niệm.”
Và bài học hôm nay bắt đầu…
Hình bình hành có:
Hai cặp cạnh đối song song
Các cạnh đối bằng nhau
Hai góc kề nhau có thể không vuông
Các góc đối bằng nhau
Nhìn nghiêng nhưng không xiêu, giống như mái che chùa khi trời gió lớn.
Trong chùa, con có thể thấy hình bình hành:
mái che bạt
các tấm thảm trải nghiêng
miếng lợp mái nhà
mặt nghiêng của hồ sen
Vì cạnh đối bằng nhau, ta có:
👉 Chu vi = (cạnh đáy + cạnh bên) × 2
Đáy = 12 m
Cạnh bên = 8 m
Chu vi = (12 + 8) × 2 = 40 m
Đây là chiều dài khung tre treo bạt.
Diện tích hình bình hành phụ thuộc vào:
độ dài đáy
chiều cao (đo vuông góc với đáy)
Công thức:
👉 Diện tích = đáy × chiều cao
Chiều cao không phải cạnh bên,
mà là đoạn thẳng vuông góc từ một đỉnh xuống đáy.
Đáy = 10 m
Chiều cao = 6 m
→ Diện tích = 10 × 6 = 60 m²
Đây là diện tích tấm bạt cần dùng.
Đáy tấm bạt: 15 m
Chiều cao: 7 m
Diện tích = 15 × 7 = 105 m²
Nếu 1 m² bạt giá 20 nghìn đồng
→ tiền mua bạt = 105 × 20 000 = 2 100 000 đồng
Đáy = 12 m
Cạnh bên = 9 m
Chu vi = (12 + 9) × 2 = 42 m
= độ dài dây cần để buộc bạt.
Đáy = 8 m
Chiều cao = 4 m
Diện tích = 8 × 4 = 32 m²
Sư thầy dạy:
“Con thấy hình bình hành không vuông góc như những hình khác.
Nhưng nó vẫn vững vàng nhờ hai cạnh song song.
Người tu cũng vậy,
không cần phải quá hoàn hảo,
chỉ cần song hành giữa thân – khẩu – ý,
thì cuộc đời dù nghiêng vẫn không đổ.”
Hình bình hành tượng trưng cho:
✔ sự ổn định
✔ sự bền bỉ
✔ sự uyển chuyển
✔ khả năng thích nghi
Một hình bình hành có đáy 14 cm, cạnh bên 9 cm.
Tính chu vi.
Đáy hình bình hành dài 20 cm, chiều cao 12 cm.
Tính diện tích.
Một tấm bạt hình bình hành có diện tích 90 m², đáy dài 15 m.
Tính chiều cao của bạt.
Mái che sân chùa là hình bình hành diện tích 120 m².
Biết đáy dài 10 m.
Hỏi chiều cao là bao nhiêu?
Nếu mỗi mét cao tượng trưng cho một đức hạnh,
hãy cho biết người tu cần bao nhiêu đức hạnh để che mưa nắng đời?
Hình bình hành dạy con:
✔ không hoàn hảo cũng vẫn có giá trị
✔ nghiêng nhưng vẫn vững vàng
✔ chỉ cần giữ điều “song song” trong đời sống
✔ thân – khẩu – ý phối hợp thì mọi việc đều yên
Toán học cho con công thức,
Phật pháp cho con cách sống.
Hôm nay cô kể con nghe một câu chuyện đẹp – chuyện chú tiểu được giao nhiệm vụ mài một viên đá thành hình thoi để trang trí trên bệ thờ.
Một buổi chiều, sư thầy trao cho chú tiểu một viên đá thô:
“Con hãy mài viên đá này thành hình thoi.
Hình thoi tượng trưng cho sự sáng trong,
như tâm người tu được mài giũa.”
Chú tiểu ngạc nhiên:
“Thầy ơi, sao không mài thành hình vuông hay hình tròn cho dễ?”
Sư thầy đáp:
“Hình thoi có bốn cạnh bằng nhau,
nhưng các góc không vuông, không đều.
Nó giống con người:
không ai hoàn hảo,
nhưng nếu biết mài, thì sẽ sáng như kim cương.”
Và thế là bài học hôm nay bắt đầu…
Hình thoi có đặc điểm:
4 cạnh bằng nhau
Các cạnh không nhất thiết song song từng cặp như hình bình hành
Hai đường chéo vuông góc nhau
Hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm
Các góc có thể nhọn hoặc tù
Trong chùa, hình thoi xuất hiện ở:
hoa văn trên trống
đế nến chạm khắc
tấm bùa hộ pháp
khung trang trí mái ngói
Vì 4 cạnh bằng nhau:
👉 Chu vi = cạnh × 4
Một viên đá được mài thành hình thoi cạnh 6 cm.
Chu vi = 6 × 4 = 24 cm
Diện tích không tính bằng cạnh,
mà tính bằng hai đường chéo.
Hai đường chéo cắt nhau vuông góc, chia hình thoi thành 4 tam giác vuông.
Công thức:
👉 Diện tích = (d₁ × d₂) / 2
Trong đó:
d₁ = đường chéo thứ nhất
d₂ = đường chéo thứ hai
d₁ = 10 cm
d₂ = 6 cm
→ Diện tích = (10 × 6) / 2 = 30 cm²
Cạnh: 8 cm
→ Chu vi = 8 × 4 = 32 cm
Hai đường chéo: 12 cm và 16 cm
→ Diện tích = (12 × 16) / 2 = 96 cm²
Hình thoi có d₁ = 30 cm, d₂ = 18 cm
→ Diện tích = (30 × 18) / 2 = 270 cm²
Cạnh 20 cm
→ Chu vi = 80 cm
Hai đường chéo 24 cm và 10 cm
→ Diện tích = 120 cm²
Sư thầy nói với chú tiểu:
“Người tu như viên đá thô.
Nhờ được mài qua khó khăn,
tâm mới trong, sáng, bền như hình thoi.
Bốn cạnh bằng nhau giống như bốn tâm vô lượng:
Từ – Bi – Hỷ – Xả luôn cân bằng.”
Đường chéo cắt nhau tại trung điểm giống như:
✔ thân – khẩu – ý gặp nhau tại tâm
✔ mọi việc quay về chánh niệm
Viên đá mài thành hình thoi sáng đẹp,
như con người được mài bởi đời sống chánh pháp.
Một hình thoi có cạnh 9 cm.
Tính chu vi.
Hình thoi có các đường chéo 12 cm và 8 cm.
Tính diện tích.
Một hình thoi có diện tích 60 cm².
Biết d₁ = 15 cm.
Tính d₂.
Một hoa văn hình thoi khắc trên bệ tượng có d₁ = 20 cm và diện tích 80 cm².
Hãy tính d₂.
(Đường chéo tượng trưng cho hai phẩm hạnh,
hãy cho biết người tu cần phẩm hạnh này dài bao nhiêu cm?)
Hình thoi dạy con:
✔ không hoàn hảo nhưng đẹp theo cách riêng
✔ bền vững từ bên trong
✔ đường chéo cắt nhau là điểm cân bằng
✔ tâm càng mài càng sáng
Toán học cho con công thức,
Phật pháp cho con nội lực.
Hôm nay cô mang con đến trước tam cấp chánh điện – nơi mỗi người đều phải bước qua trước khi vào lễ Phật. Và bài học hôm nay được khởi đầu từ một công trình nhỏ nhưng đầy ý nghĩa.
Một hôm, sư thầy bảo ba chú tiểu:
“Chúng ta cần làm lại các bậc tam cấp trước chánh điện.
Mặt bậc nên làm hình thang, cho đẹp và vững.”
Chú tiểu tò mò:
“Thầy ơi, sao không làm hình chữ nhật cho dễ?
Hình thang trông… nghiêng quá ạ.”
Sư thầy mỉm cười:
“Con đường vào chánh điện phải có sự mở rộng.
Hình thang có đáy lớn – đáy nhỏ,
tượng trưng cho việc từ chỗ nhỏ hẹp mà bước vào nơi rộng lớn của tâm.”
Thế là ba chú vừa làm tam cấp, vừa học Toán.
Hôm nay con cũng vậy.
Hình thang là hình tứ giác có ít nhất một cặp cạnh song song.
Hai cạnh song song gọi là: đáy lớn (a) và đáy nhỏ (b)
Hai cạnh còn lại gọi là cạnh bên
Chiều cao h là đoạn thẳng vuông góc nối hai đáy
Trong chùa, hình thang xuất hiện ở:
bậc tam cấp
mái hiên
những tấm bảng hiệu
các chi tiết chạm khắc nghiêng
Chu vi là tổng độ dài tất cả các cạnh.
👉 Chu vi = a + b + c + d
(với a, b là hai đáy; c, d là hai cạnh bên)
Đáy lớn = 10 m
Đáy nhỏ = 6 m
Hai cạnh bên = 4 m và 4 m
Chu vi = 10 + 6 + 4 + 4 = 24 m
Diện tích được tính bằng:
👉 Diện tích = (a + b) × h / 2
Trong đó:
a = đáy lớn
b = đáy nhỏ
h = chiều cao
a = 12 cm
b = 8 cm
h = 5 cm
Diện tích = (12 + 8) × 5 / 2
= 20 × 5 / 2
= 50 cm²
Đáy lớn = 100 cm
Đáy nhỏ = 80 cm
Chiều cao (bề rộng bậc) = 20 cm
Diện tích bậc = (100 + 80) × 20 / 2 = 1800 cm²
Đáy lớn = 1,5 m
Đáy nhỏ = 1 m
Cạnh bên: 0,8 m mỗi cạnh
Chu vi = 1,5 + 1 + 0,8 + 0,8 = 4,1 m
a = 90 cm
b = 70 cm
h = 25 cm
Diện tích = (90 + 70) × 25 / 2 = 2000 cm²
Sư thầy nói:
“Hình thang có đáy nhỏ và đáy lớn.
Giống như người tu:
bắt đầu từ cái tâm nhỏ hẹp,
rồi dần mở ra,
mở đến khi có thể ôm trọn cả chúng sinh.”
Đáy nhỏ = tâm ban đầu
Đáy lớn = tâm rộng lớn
Chiều cao = nỗ lực tu tập mỗi ngày
Chỉ khi có chiều cao nỗ lực, hai đáy mới được nối lại,
và hình thang mới thành hình.
Hình thang có đáy lớn 14 cm, đáy nhỏ 10 cm, chiều cao 6 cm.
Tính diện tích.
Một hình thang có đáy lớn 20 cm, đáy nhỏ 12 cm, cạnh bên 8 cm mỗi bên.
Tính chu vi.
Một bậc tam cấp có diện tích 750 cm².
Biết đáy lớn 50 cm, đáy nhỏ 30 cm.
Tính chiều cao.
Bậc dẫn vào chánh điện có
a = 2 m, b = 1,4 m, h = 0,5 m.
Tính diện tích bậc.
Hãy cho biết: nếu mỗi mét vuông tượng trưng cho một tâm hỷ,
bậc này mang bao nhiêu tâm hỷ?
Hình thang dạy con:
✔ Muốn đi vào điều rộng lớn – phải có nỗ lực (chiều cao)
✔ Ban đầu nhỏ hẹp, nhưng có thể mở ra
✔ Mọi con đường vào chánh điện đều bắt đầu từ đáy nhỏ
✔ Tâm con cũng vậy – mở dần thì an lạc mới vào được
Toán học dạy con hình dạng,
Phật pháp dạy con cách bước vào đời với tâm rộng mở.
Hôm nay cô dẫn con đến giếng nước sau chùa, nơi có một cái chum tròn lớn dùng để chứa nước cho đại chúng rửa tay trước khi vào chánh điện.
Một buổi chiều, sư thầy giao cho chú tiểu nhiệm vụ:
“Con hãy đo miệng chiếc chum này để làm thêm một cái nắp gỗ mới.
Vì nắp cũ đã mục rồi.”
Chú tiểu nhìn cái chum, thấy miệng tròn mà phân vân:
“Thầy ơi, làm sao đo hình tròn?
Con chỉ biết đo hình vuông, hình chữ nhật thôi.”
Sư thầy mỉm cười:
“Hình tròn không có góc,
cũng giống như tâm không vướng mắc.
Muốn hiểu được nó, con phải biết đến bán kính, đường kính, chu vi và diện tích.”
Và thế là bài học hôm nay bắt đầu từ… cái chum nước thiền.
Hình tròn có 3 khái niệm rất quan trọng:
Điểm ở chính giữa hình tròn.
Đoạn thẳng từ tâm đến một điểm trên đường tròn.
Đoạn thẳng đi qua tâm, nối hai điểm trên đường tròn.
Công thức liên hệ:
👉 d = 2r
Giống như:
tâm là cốt lõi của con người
bán kính là những việc ta làm
đường kính là tầm ảnh hưởng rộng gấp đôi khi tâm sáng
Chu vi là độ dài đường bao quanh hình tròn.
Công thức:
👉 C = 2πr
hoặc
👉 C = πd
(π ≈ 3,14)
r = 10 cm
C = 2 × 3,14 × 10 = 62,8 cm
Diện tích = phần mặt phẳng mà hình tròn chiếm.
Công thức:
👉 S = πr²
r = 7 cm
S = 3,14 × 7² = 3,14 × 49 ≈ 153,86 cm²
Miệng chum có đường kính 60 cm.
Tính chu vi:
C = πd = 3,14 × 60 = 188,4 cm
Đó là chiều dài gỗ viền quanh nắp.
Sân chùa vẽ một vòng tròn dẫn lối thiền hành.
Bán kính = 5 m.
Chu vi vòng tròn:
C = 2 × 3,14 × 5 = 31,4 m
Bán kính = 2 m.
Diện tích bồn hoa:
S = 3,14 × 2² = 12,56 m²
Sư thầy dạy chú tiểu:
“Hình tròn không có góc,
giống như tâm không còn vướng mắc.
Điểm tâm ở giữa,
từ đó mọi nơi đều cách đều nhau –
giống như con nhìn ai cũng với lòng bình đẳng.”
Hình tròn tượng trưng cho:
✔ sự hoàn thiện
✔ lòng từ bi lan tỏa
✔ tâm vô ngại
✔ sự tròn đầy của trí tuệ
Như giọt nước chảy trong chum,
dù chạm vào đâu cũng tạo thành vòng tròn.
Một hình tròn có bán kính 8 cm.
Tính chu vi.
Đường kính miệng chum là 50 cm.
Tính diện tích miệng chum.
Một vòng tròn thiền hành có chu vi 62,8 m.
Hỏi bán kính là bao nhiêu?
(Biết π = 3,14)
Một mandala thiền (mạn-đà-la) hình tròn có bán kính 3 m.
Tính diện tích của mandala.
Nếu mỗi mét vuông đại diện cho một “tâm an”,
hỏi mandala này chứa bao nhiêu tâm an?
Hình tròn dạy con:
✔ đừng để tâm mình có góc cạnh
✔ giữ “tâm ở giữa” – trung đạo
✔ lan tỏa tình thương theo mọi hướng
✔ hoàn thiện bản thân từng chút một
Học hình tròn là học cách sống tròn đầy.
Hôm nay cô đưa con đến một ngày mùa đông đặc biệt ở ngôi chùa trên núi. Chính câu chuyện đó sẽ dẫn con đi vào thế giới rất thú vị của số nguyên.
Sáng hôm ấy, tuyết rơi dày trước sân chùa.
Ba chú tiểu được giao xúc tuyết trên con đường dẫn từ chân đồi lên chùa.
Đường núi có đoạn lên, đoạn xuống.
Chú tiểu nhỏ nhất than thở:
“Con không biết tính chỗ nào lên, chỗ nào xuống bao nhiêu mét.
Chỉ thấy… mệt quá thầy ơi!”
Sư thầy cười hiền:
“Các con phải biết số dương chỉ đường lên,
số âm chỉ đường xuống.
Làm quen với nó, con sẽ thấy đường đi trong đời cũng vậy:
có lúc lên cao, có lúc xuống thấp,
nhưng đều là một phần của hành trình.”
Và thế là ba chú vừa dọn tuyết, vừa học số nguyên.
Số nguyên gồm:
(dùng để chỉ lên, tăng, nhiều hơn)
(là điểm “trung đạo”, không tăng không giảm)
(dùng để chỉ xuống, giảm, ít hơn)
Tập hợp số nguyên ký hiệu:
👉 ℤ = {…, –3, –2, –1, 0, 1, 2, 3, …}
Sư thầy giải thích với ba chú tiểu:
“Số dương giống như tâm đang đi lên, tinh tấn.
Số âm giống như phiền não làm mình tuột xuống.
Còn số 0 giống như hơi thở –
nơi con dừng lại để biết mình đang đi về đâu.”
Chân đồi: 0 m
Chú tiểu leo lên 20 m → +20
Rồi đi xuống 5 m → –5
Vị trí mới = 20 + (–5) = +15 m
Buổi sáng: –3°C
Buổi trưa: 2°C
Nhiệt độ tăng: 2 – (–3) = 5°C
Hôm nay mực nước thấp hơn hôm qua 4 cm → –4 cm
Ngày mai mưa, nước dâng thêm 6 cm → +6 cm
Tổng thay đổi = –4 + 6 = +2 cm
5 + 3 = 8
5 + (–3) = 2
a – b = a + (–b)
Ví dụ:
7 – (–4) = 7 + 4 = 11
Giống như:
Lùi lại một bước để tiến thêm hai bước.
Sư thầy vẽ một đường thẳng dài trên tuyết và bảo:
“Đây là đường đời của con.
Bên phải là số dương,
bên trái là số âm.
Con đi trái hay phải –
đều là bài học.”
Đi về phải → tăng (dương)
Đi về trái → giảm (âm)
Đứng tại 0 → bình an, quan sát
Điền số còn thiếu:
a) 3 + (–5) = …
b) –2 + 7 = …
c) –6 – (–3) = …
Nhiệt độ buổi sáng là –4°C.
Buổi trưa tăng thêm 9°C.
Buổi chiều giảm 3°C.
Nhiệt độ chiều là bao nhiêu?
Một chú tiểu trèo lên 12 m rồi xuống 15 m.
Vị trí cuối cùng so với điểm xuất phát là bao nhiêu mét?
Tâm con hôm nay:
buổi sáng sân tăng 2 mức → –2
nghe pháp, tâm tăng 5 mức → +5
chiều hơi buồn ngủ, mất 1 mức → –1
Tổng tâm hôm nay là bao nhiêu?
(Ý nghĩa: cuối ngày tâm con đang dương hay âm?)
Số nguyên dạy con rằng:
✔ có lúc lên, lúc xuống – là chuyện bình thường
✔ đừng sợ số âm – vì có âm mới thấy được dương
✔ đừng tự mãn với số dương – vì có thể mất nếu không giữ
✔ 0 là nơi con dừng lại để quan sát tâm mình
Toán học cho con cách nhìn thế giới,
Phật pháp cho con cách nhìn chính mình.
Hôm nay cô kể con nghe một câu chuyện rất đẹp – câu chuyện leo núi trong mây của ba chú tiểu. Và chính hành trình ấy sẽ giúp con hiểu sâu hơn về cộng – trừ số nguyên.
Một buổi sáng, sư thầy dẫn ba chú tiểu lên ngọn núi sau chùa để thu hoạch thuốc nam. Đường đi có đoạn:
leo lên
xuống dốc
rồi lại leo lên
rồi lại xuống sâu vào thung lũng
Chú tiểu nhỏ nhất thở hổn hển:
“Thầy ơi, con không nhớ nổi là con đang ở độ cao nào nữa…
Toàn lên rồi xuống, xuống rồi lại lên!”
Sư thầy cười hiền:
“Con hãy ghi lại bằng số nguyên.
Lên là cộng số dương.
Xuống là cộng số âm.
Đi hết con đường là một bài toán cộng – trừ thật đẹp.”
Ba chú bèn thử làm theo…
Và đó cũng là nội dung bài học hôm nay.
a + b (với b > 0)
Ví dụ:
10 + 4 = 14
→ leo lên 4 mét
a + (–b)
Ví dụ:
10 + (–4) = 6
→ xuống 4 mét
Đang ở +20 m, chú đi xuống 7 m:
20 + (–7) = 13 m
Công thức vàng:
👉 a – b = a + (–b)
Điều này giống như:
lấy đi điều gì → giảm
bớt đi nỗi buồn → tăng
trừ số âm thành cộng số dương → đi lên từ nơi xuống dốc
7 – (–3) = 7 + 3 = 10
Ba chú tiểu ghi lại độ cao theo từng đoạn:
Xuất phát từ chùa: 0 m
Leo lên 15 m → +15
Xuống 8 m → –8
Leo tiếp 5 m → +5
Xuống sâu 12 m → –12
Tính vị trí cuối cùng:
0 + 15 + (–8) + 5 + (–12)
= 15 – 8 + 5 – 12
= 7 + 5 – 12
= 12 – 12
= 0 m
Ba chú bật cười:
“Đi bao nhiêu đoạn mà cuối cùng lại trở về đúng độ cao ban đầu!”
Sư thầy nói:
“Cuộc đời cũng vậy.
Đi lên – đi xuống là bài học.
Đôi khi trải qua nhiều điều…
nhưng cuối cùng chỉ để trở về tâm bình an ban đầu.”
Khi gặp biểu thức:
a + (–b)
a – (–b)
a – (+b)
Hãy nhớ:
✔ (–b) = số âm
✔ –(–b) = +b
✔ –(+b) = –b
3 – (–2) = 3 + 2 = 5
–4 + (–6) = –10
7 – (+3) = 7 – 3 = 4
Như việc leo núi:
ngoặc “–(–b)” giống như đang xuống dốc nhưng bất ngờ lại có bậc thang nâng con lên
ngoặc “+(–b)” là đoạn dốc xuống nhẹ
ngoặc “–(+b)” là đoạn lên mà bị trừ lại
Sư thầy vạch một đường dài trên vách núi, nói:
“Đây là trục số trong tâm.
Bên phải là dương (thăng tiến).
Bên trái là âm (thối lui).
Nhưng con đứng đâu không quan trọng,
quan trọng là con biết mình đang đi về đâu.”
Số nguyên giúp con:
✔ nhìn rõ sự tăng – giảm
✔ không sợ xuống dốc
✔ không tự mãn khi đi lên
✔ biết dừng tại 0 để quan sát
Tính nhanh:
a) 12 + (–7)
b) –5 + 9
c) 3 – (–8)
d) –10 – (–4)
Một chú tiểu leo +18 m, rồi xuống 25 m, rồi leo 10 m.
Độ cao cuối cùng là bao nhiêu?
Nhiệt độ sáng là –2°C.
Trưa tăng 7°C.
Chiều giảm 5°C.
Tối tăng 3°C.
Nhiệt độ tối là bao nhiêu?
Tâm con trong ngày:
nổi sân: –3 mức
tỉnh giác lại: +4 mức
hơi buồn: –1 mức
nghe pháp: +6 mức
Tính tổng mức tâm cuối ngày.
Tâm dương hay âm?
Cộng – trừ số nguyên dạy con rằng:
✔ đi lên hay xuống đều là trải nghiệm
✔ số âm không xấu – nó giúp con biết mình đang ở đâu
✔ số dương không đáng kiêu – nó có thể mất nếu không giữ
✔ số 0 là nơi con dừng lại để soi tâm
Như ba chú tiểu leo núi trong mây:
đi bao nhiêu đoạn cũng chỉ để trở về tâm bình an ban đầu.
Hôm nay cô đưa con vào một buổi tối rất lạnh ở ngôi chùa trên núi — nơi ba chú tiểu phải học cách nhóm lửa trong đêm tuyết, và cũng chính nơi ấy các chú học được nhân – chia số nguyên.
Đêm ấy trời lạnh đến mức hơi thở bay thành khói trắng.
Ba chú tiểu quây quanh bếp lửa nhỏ trong bếp trà.
Sư thầy bước vào, thấy than trong bếp đang âm ỉ, bèn nói:
“Trong trời lạnh, thêm lửa thì ấm,
bớt lửa thì lạnh.
Giống như số nguyên vậy:
nhân với số dương thì mạnh lên,
nhân với số âm thì đổi chiều.”
Chú tiểu út ngạc nhiên:
“Thầy ơi, nhân số âm là sao ạ?
Sao lại đổi chiều giống như gió đổi hướng?”
Sư thầy gật đầu:
“Hôm nay thầy dạy các con cách nhân – chia số nguyên,
để sau này con không lẫn lộn khi tính toán.”
Và thế là bài học bắt đầu…
Phép nhân số nguyên dựa vào dấu và giá trị.
Giống như thêm củi vào bếp → lửa lớn hơn.
Ví dụ:
3 × 4 = 12
Giống như thêm gió lạnh vào → lửa tắt bớt.
5 × (–2) = –10
Giống như tâm đang buồn (âm), có thêm áp lực (dương) → buồn tăng.
–3 × 6 = –18
Hai cái “ngược” gặp nhau → thành “thuận”.
–4 × (–3) = 12
Sư thầy nói:
“Hai điều tiêu cực gặp nhau, nếu biết chuyển hóa,
lại tạo ra kết quả tốt.”
(giải thích bằng ngọn lửa đêm tuyết)**
Ba chú thắc mắc, sư thầy dùng ví dụ thực tế:
Gió lạnh thổi đối ngược với hướng tuyết → tuyết tan chậm lại.
Hai điều ngược chiều gặp nhau → tạo cân bằng.
Trong Toán:
👉 “âm” = hướng ngược
👉 “× âm” = đổi hướng một lần nữa
Đổi hai lần → trở về hướng ban đầu → dương.
Giống như:
“Mình đang buồn (–),
gặp người nói lời động viên (– đổi hướng),
tâm mình sáng lên (+).”
Các quy tắc giống hệt nhân về phần dấu.
Ví dụ:
12 ÷ (–3) = –4
–20 ÷ (–5) = +4
–30 ÷ 6 = –5
Sư thầy giải thích:
“Một ngọn lửa chia cho gió lạnh thì lửa yếu đi.
Nhưng nếu gió lạnh lại chia cho gió lạnh,
thì hướng gió lại trở nên thuận.”
Ba chú ghi lại thao tác nhóm lửa:
Ban đầu lửa ấm mức +6
Gió lạnh thổi mạnh gấp 2 lần → × (–2)
Một lúc sau sư thầy thêm 3 bó củi → +3
Rồi gió lại thổi ngược chiều gấp 2 lần → × (–2)
Tính:
Bước 1: 6 × (–2) = –12
Bước 2: –12 + 3 = –9
Bước 3: –9 × (–2) = 18
Cuối cùng: lửa ấm trở lại mạnh mẽ.
Sư thầy nói:
“Cuộc đời cũng giống bếp lửa.
Khi con gặp hai lần nghịch cảnh (âm × âm),
nếu biết giữ tâm an,
cuối cùng con sẽ mạnh hơn.”
Dương → điều tốt
Âm → nghịch cảnh
Nhân → làm mạnh lên
Chia → làm nhẹ đi
Sư thầy dạy:
“Điều tốt nhân lên thì thành phước.
Điều xấu chia nhỏ thì dần tan biến.
Nhưng nếu máy móc nhân điều xấu lên,
thì lửa tâm sẽ tắt mất.”
a) 6 × (–3)
b) –4 × (–5)
c) –12 ÷ 3
d) –20 ÷ (–4)
Ngọn lửa đang ở mức +10.
Gió lạnh thổi mạnh gấp 3 lần → × (–3).
Sau đó sư thầy thêm 4 bó củi → +4.
Tính mức độ lửa cuối cùng.
Độ cao bắt đầu: +8 m.
Chú đi xuống dốc gấp đôi → × (–2).
Sau đó leo lên 6 m.
Tính độ cao cuối cùng.
Tâm con trong ngày:
Buồn tăng gấp 2 lần → × (–2)
Được khuyến tấn → +5
Nghịch duyên đổi hướng → × (–1)
Tính tâm cuối ngày.
Tâm dương hay âm?
Phép nhân – chia số nguyên dạy con:
✔ điều tốt nhân lên → phước tăng
✔ điều xấu nhân lên → tâm mệt
✔ số âm không đáng sợ – chỉ là nghịch duyên
✔ âm × âm = dương → khó khăn gặp khó khăn mà con giữ tâm sáng → sẽ vượt qua
Như ngọn lửa trong đêm tuyết:
có lúc yếu, có lúc mạnh,
nhưng nếu biết cách nuôi giữ,
cuối cùng vẫn tỏa sáng.