📘 KINH TRƯỜNG BỘ — KINH PHẠM VÕNG (Brahmajāla Sutta)
Tụng phẩm thứ nhất
⸻
1.
Như vầy tôi nghe.
如是我聞
Rú shì wǒ wén
Như thị ngã văn
Thus have I heard.
⸻
2.
Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường giữa Rājagaha (Vương Xá) và Nalandà, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.
一時,世尊與約五百比丘眾行於王舍城與那爛陀之間的道路上。
Yī shí, Shìzūn yǔ yuē wǔ bǎi bǐqiū zhòng xíng yú Wángshèchéng yǔ Nàlàndà zhī jiān de dàolù shàng.
Nhất thời, Thế Tôn dữ ước ngũ bách Tỷ-kheo chúng hành ư Vương Xá thành dữ Na-lan-đà chi gian chi đạo thượng.
At one time, the Blessed One was walking on the road between Rājagaha and Nālandā together with a community of about five hundred bhikkhus.
⸻
3.
Lúc bấy giờ có Suppiya du sĩ ngoại đạo cũng đi trên con đường giữa Rājagaha và Nalandà cùng với đệ tử, thanh niên Brahmadatta.
爾時,有外道遊行者蘇毘耶與其弟子青年婆羅門達多,同往於王舍城與那爛陀之間的道路上。
Ěr shí, yǒu wàidào yóuxíng zhě Sūpíyé yǔ qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō tóng wǎng yú Wángshèchéng yǔ Nàlàndà zhī jiān de dàolù shàng.
Nhĩ thời, hữu ngoại đạo du hành giả Tô-bì-da dữ kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa, đồng vãng ư Vương Xá thành dữ Na-lan-đà chi gian chi đạo thượng.
At that time, the outsider ascetic Suppiya was also walking on the road between Rājagaha and Nālandā together with his disciple, the young Brahmadatta.
⸻
4.
Suppiya, du sĩ ngoại đạo dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng;
蘇毘耶外道以無量方便毀謗佛、法、僧;
Sūpíyé wàidào yǐ wúliàng fāngbiàn huǐbàng Fó, Fǎ, Sēng;
Tô-bì-da ngoại đạo dĩ vô lượng phương tiện hủy báng Phật, Pháp, Tăng;
Suppiya, the outsider ascetic, used countless ways to criticize the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha;
⸻
5.
Còn đệ tử của du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta, lại dùng vô số phương tiện tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng.
其弟子青年婆羅門達多則以無量方便讚歎佛、法、僧。
Qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō zé yǐ wúliàng fāngbiàn zàntàn Fó, Fǎ, Sēng.
Kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa tắc dĩ vô lượng phương tiện tán thán Phật, Pháp, Tăng.
But his disciple, the young Brahmadatta, used countless ways to praise the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha.
⸻
6.
Như vậy cả hai thầy trò nói những lời hoàn toàn tương phản nhau trong khi đi sau lưng đức Phật và chúng Tỷ-kheo.
如是,師徒二人俱在佛與比丘眾之後,互說全然相反之語。
Rú shì, shītú èr rén jù zài Fó yǔ bǐqiū zhòng zhī hòu, hù shuō quánrán xiāngfǎn zhī yǔ.
Như thị, sư đồ nhị nhân câu tại Phật dữ Tỷ-kheo chúng chi hậu, hỗ thuyết toàn nhiên tương phản chi ngữ.
Thus, the teacher and his disciple spoke completely opposite words while walking behind the Buddha and the community of monks.
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Brahmajāla: lưới của Phạm thiên; tên kinh Phạm Võng.
Sutta: bài kinh; lời dạy.
Tathāgata / Bhagavā: Thế Tôn, Đức Phật.
Bhikkhu: Tỷ-kheo, tu sĩ thọ giới.
Rājagaha: thành Vương Xá.
Nālandā: Na-lan-đà, một trung tâm giáo dục lớn thời xưa.
Ngoại đạo: người theo học thuyết ngoài Phật pháp.
Du sĩ: người sống đời khất thực, du hành.
Phương tiện: cách thức, biện pháp.
Hủy báng: nói xấu, phỉ báng.
Tán thán: ca ngợi, khen ngợi.
Tương phản: trái ngược hoàn toàn.
⸻
📖 CHÚ GIẢI SONG NGỮ VIỆT – ANH
Đoạn kinh mở đầu mô tả bối cảnh Đức Phật đang du hành giữa hai thành nổi tiếng Rājagaha và Nālandā, cùng với khoảng năm trăm Tỷ-kheo.
The opening passage describes the Buddha traveling between the well-known cities of Rājagaha and Nālandā with about five hundred bhikkhus.
Phía sau Ngài là hai thầy trò thuộc ngoại đạo: Suppiya và Brahmadatta.
Behind him were two members of a non-Buddhist sect: Suppiya and his disciple Brahmadatta.
Điều đặc biệt là thầy thì liên tục hủy báng Tam Bảo, trong khi trò lại hết sức tán thán Tam Bảo.
Interestingly, the teacher continually criticized the Triple Gem, while the disciple earnestly praised it.
Sự đối nghịch này tạo duyên để Đức Phật giảng toàn bộ Kinh Phạm Võng về sáu mươi hai kiến chấp của thế gian.
This contrast became the condition for the Buddha to deliver the Brahmajāla Sutta, which addresses the sixty-two speculative views held in the world.
1.
Rồi Thế Tôn đến nghỉ một đêm tại Ambalatthikà, nhà nghỉ mát của vua, cùng với chúng Tỷ-kheo.
爾後,世尊與比丘眾至王家涼亭安巴拉提卡宿止一夜。
Ěr hòu, Shìzūn yǔ bǐqiū zhòng zhì Wángjiā liángtíng Ānbālā tíkǎ sùzhǐ yī yè.
Nhĩ hậu, Thế Tôn dữ Tỷ-kheo chúng chí Vương gia lương đình An-ba-la-thích-ca túc chỉ nhất dạ.
Then the Blessed One stayed for one night at Ambalaṭṭhikā, the royal rest-house, together with the community of bhikkhus.
⸻
2.
Suppiya, du sĩ ngoại đạo cũng đến nghỉ một đêm tại Ambalatthikà, nhà nghỉ mát của vua, cùng với đệ tử, thanh niên Brahmadatta.
蘇毘耶外道亦與其弟子青年婆羅門達多至王家涼亭安巴拉提卡宿一夜。
Sūpíyé wàidào yì yǔ qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō zhì Wángjiā liángtíng Ānbālā tíkǎ sù yī yè.
Tô-bì-da ngoại đạo diệc dữ kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa chí Vương gia lương đình An-ba-la-thích-ca túc nhất dạ.
Suppiya, the outsider ascetic, also stayed one night at Ambalaṭṭhikā, the royal rest-house, together with his disciple, the young Brahmadatta.
⸻
3.
Tại đây, du sĩ ngoại đạo Suppiya cũng dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng…
於此處,蘇毘耶外道亦以無量方便毀謗佛、法、僧……
Yú cǐ chù, Sūpíyé wàidào yì yǐ wúliàng fāngbiàn huǐbàng Fó, Fǎ, Sēng……
Ư thử xứ, Tô-bì-da ngoại đạo diệc dĩ vô lượng phương tiện hủy báng Phật, Pháp, Tăng……
Here, the outsider ascetic Suppiya again used countless ways to criticize the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha…
⸻
4.
…còn người đệ tử của du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta, lại dùng vô số phương tiện tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng.
……其弟子青年婆羅門達多則以無量方便讚歎佛、法、僧。
……Qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō zé yǐ wúliàng fāngbiàn zàntàn Fó, Fǎ, Sēng.
……Kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa tắc dĩ vô lượng phương tiện tán thán Phật, Pháp, Tăng.
…while his disciple, the young Brahmadatta, used countless ways to praise the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha.
⸻
5.
Như vậy cả hai thầy trò nói những lời tương phản nhau trong khi đi sau lưng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
如是,師徒二人隨在世尊與比丘眾之後,互說相反之語。
Rú shì, shītú èr rén suí zài Shìzūn yǔ bǐqiū zhòng zhī hòu, hù shuō xiāngfǎn zhī yǔ.
Như thị, sư đồ nhị nhân tùy tại Thế Tôn dữ Tỷ-kheo chúng chi hậu, hỗ thuyết tương phản chi ngữ.
Thus, the teacher and his disciple spoke opposing words while following behind the Blessed One and the community of monks.
⸻
6.
Và khi đêm vừa mới tàn, một số lớn chư Tăng, sau khi thức dậy, đã ngồi họp tại một gian nhà hình tròn và câu chuyện sau đây được bàn đến giữa chư Tăng.
夜既將盡,眾多比丘起身後,集坐於一圓形屋內,並議論如下之事。
Yè jì jiāng jìn, zhòngduō bǐqiū qǐshēn hòu, jí zuò yú yī yuánxíng wū nèi, bìng yìlùn rúxià zhī shì.
Dạ ký tương tận, chúng đa Tỷ-kheo khởi thân hậu, tập tọa ư nhất viên hình ốc nội, tịnh nghị luận như hạ chi sự.
And when the night had just passed, many of the monks, after waking up, gathered in a circular hall and discussed the following matter.
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Ambalaṭṭhikā: nhà nghỉ mát của vua, công quán của hoàng gia.
Suppiya: tên một du sĩ ngoại đạo.
Brahmadatta: thanh niên, đệ tử của Suppiya.
Hủy báng: phỉ báng, chỉ trích ác ý.
Tán thán: khen ngợi, ca ngợi.
Phương tiện: mọi cách thức, nhiều biện pháp.
Tương phản: trái ngược hoàn toàn.
Chúng Tỷ-kheo: cộng đồng tu sĩ Phật giáo.
Nhà hình tròn: nơi họp chúng, giảng đường hình tròn.
Đêm tàn: đêm vừa hết, trời sắp sáng.
⸻
📖 CHÚ GIẢI SONG NGỮ (Việt – Anh)
Ở Ambalaṭṭhikā, cả Suppiya và Brahmadatta vẫn tiếp tục hai thái độ hoàn toàn trái ngược: Suppiya phỉ báng Tam Bảo, còn Brahmadatta lại hết sức ca ngợi.
At Ambalaṭṭhikā, Suppiya and Brahmadatta continued their completely opposite attitudes: Suppiya criticizing the Triple Gem, while Brahmadatta praising it.
Vì họ đi ngay sau lưng Đức Phật và đại chúng, sự đối nghịch này khiến chư Tăng chú ý và trở thành chủ đề thảo luận vào buổi sáng hôm sau.
Because they walked behind the Buddha and the monastic community, their contrast drew attention and became the subject of discussion the next morning.
Đoạn này làm nền cho việc Đức Phật sẽ giải thích vì sao không nên vui khi được khen, cũng không nên buồn khi bị phỉ báng, và từ đó đi vào phần chính của Kinh Phạm Võng.
This passage sets the stage for the Buddha to explain why one should not delight in praise nor be distressed by criticism, leading to the main body of the Brahmajāla Sutta.
1.
– Này các Hiền giả, thật kỳ diệu thay! Này các Hiền giả, thật hy hữu thay!
諸賢者,如此奇妙!諸賢者,如此希有!
Zhū xiánzhě, rúcǐ qímiào! Zhū xiánzhě, rúcǐ xīyǒu!
Chư Hiền giả, như thử kỳ diệu! Chư Hiền giả, như thử hy hữu!
“Venerable sirs, how wonderful! Venerable sirs, how astonishing!”
⸻
2.
Thế Tôn, đấng Toàn Tri, Toàn Kiến, đấng A-la-hán, bậc Chánh Ðẳng Giác, đã thấu hiểu sự xu hướng sai khác của chúng sanh.
世尊、全知全見、阿羅漢、正等覺者,已洞達眾生諸異傾向。
Shìzūn, quánzhī quánjiàn, Āluóhàn, zhèngděng jué zhě, yǐ dòngdá zhòngshēng zhū yì qīngxiàng.
Thế Tôn, Toàn Tri Toàn Kiến, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giả, dĩ động đạt chúng sanh chư dị khuynh hướng.
The Blessed One, the All-knowing, the All-seeing, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, has fully understood the diverse tendencies of beings.
⸻
3.
Suppiya, kẻ du sĩ ngoại đạo này dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng.
此外道遊行者蘇毘耶,以無量方便毀謗佛、法、僧。
Cǐ wàidào yóuxíng zhě Sūpíyé, yǐ wúliàng fāngbiàn huǐbàng Fó, Fǎ, Sēng.
Thử ngoại đạo du hành giả Tô-bì-da, dĩ vô lượng phương tiện hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
This outsider ascetic, Suppiya, used countless ways to slander the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha.
⸻
4.
Còn đệ tử du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta lại dùng vô số phương tiện, tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng.
而其弟子青年婆羅門達多則以無量方便讚歎佛、法、僧。
Ér qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō zé yǐ wúliàng fāngbiàn zàntàn Fó, Fǎ, Sēng.
Nhi kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa tắc dĩ vô lượng phương tiện tán thán Phật, Pháp, Tăng.
But his disciple, the young Brahmadatta, used countless ways to praise the Buddha, the Dhamma, and the Saṅgha.
⸻
5.
Như vậy cả hai thầy trò đã nói những lời hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
如是,師徒二人隨在世尊與比丘眾之後,互說全然相反之語。
Rú shì, shītú èr rén suí zài Shìzūn yǔ bǐqiū zhòng zhī hòu, hù shuō quánrán xiāngfǎn zhī yǔ.
Như thị, sư đồ nhị nhân tùy tại Thế Tôn dữ Tỷ-kheo chúng chi hậu, hỗ thuyết toàn nhiên tương phản chi ngữ.
Thus, the teacher and his disciple spoke entirely opposite words while walking behind the Blessed One and the community of monks.
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Hiền giả: người tu tập có giới hạnh, bậc đáng kính.
Kỳ diệu: điều lạ lùng, khác thường.
Hy hữu: rất hiếm, khó gặp.
Toàn Tri – Toàn Kiến: biết tất cả, thấy tất cả.
A-la-hán: bậc đã đoạn tận lậu hoặc.
Chánh Đẳng Giác: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Xu hướng sai khác: khuynh hướng khác nhau của các loài hữu tình.
Du sĩ ngoại đạo: người tu theo giáo phái ngoài Phật pháp.
Hủy báng: nói xấu, phỉ báng.
Tán thán: khen ngợi, ca ngợi.
Tương phản: trái ngược hoàn toàn.
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Ở đoạn này, chư Tăng bày tỏ sự kinh ngạc trước trí tuệ của Đức Phật, Ngài hiểu rõ mọi loại tâm tính, thiên hướng và quan điểm của chúng sanh.
In this passage, the monks express their amazement at the Buddha’s wisdom, noting that He fully understands all dispositions, tendencies, and views of beings.
Hai thầy trò Suppiya và Brahmadatta là ví dụ rõ rệt: một người cực lực phỉ báng Tam Bảo, còn người kia hết sức ca ngợi.
The pair Suppiya and Brahmadatta exemplify this: one harshly slanders the Triple Gem, while the other wholeheartedly praises it.
Sự trái ngược của họ chỉ phản ánh sự đa dạng phức tạp trong tâm thức con người – điều mà Đức Phật thấu suốt một cách trọn vẹn.
Their opposition illustrates the complex diversity within human minds—something the Buddha understands completely.
1.
Lúc bấy giờ Thế Tôn được biết câu chuyện đang bàn giữa chư Tăng, liền đến tại gian nhà hình tròn và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
爾時,世尊知諸比丘所議之事,即往圓屋,於預置之座安坐。
Ěr shí, Shìzūn zhī zhū bǐqiū suǒ yì zhī shì, jí wǎng yuán wū, yú yù zhì zhī zuò ānzuò.
Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Tỷ-kheo sở nghị chi sự, tức vãng viên ốc, ư dự trí chi tọa an tọa.
At that time, the Blessed One, knowing the discussion among the monks, went to the circular hall and sat down on the seat prepared for Him.
⸻
2.
Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-Kheo:
– Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì được bàn đến trong khi các ngươi ngồi họp tại chỗ này? Vấn đề gì đã được bỏ dở chưa nói xong?
世尊坐已,謂諸比丘曰:
「諸比丘,汝等集坐於此時,所議何事?有何論議未竟?」
Shìzūn zuò yǐ, wèi zhū bǐqiū yuē:
“Zhū bǐqiū, rǔděng jí zuò yú cǐ shí, suǒ yì hé shì? Yǒu hé lùnyì wèi jìng?”
Thế Tôn tọa dĩ, vị chư Tỷ-kheo viết:
“Chư Tỷ-kheo, nhữ đẳng tập tọa ư thử thời, sở nghị hà sự? Hữu hà luận nghị vị cánh?”
After sitting down, the Blessed One said:
“Bhikkhus, what topic were you discussing while you were gathered here? What matter was left unfinished?”
⸻
3.
Nghe nói như vậy, các Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn! Tại đây, khi đêm vừa mới tàn, chúng con sau khi dậy, ngồi họp tại nơi gian nhà hình tròn và giữa chúng con, câu chuyện sau đây được bàn đến:
聞如是語,諸比丘白世尊曰:
「世尊!此處夜甫將盡,我等起後,集坐於圓屋,其中議論如下:」
Wén rú shì yǔ, zhū bǐqiū bái Shìzūn yuē:
“Shìzūn! Cǐ chù yè fǔ jiāng jìn, wǒděng qǐ hòu, jí zuò yú yuán wū, qízhōng yìlùn rúxià:”
Văn như thị ngữ, chư Tỷ-kheo bạch Thế Tôn viết:
“Thế Tôn! Thử xứ dạ phủ tương tận, ngã đẳng khởi hậu, tập tọa ư viên ốc, kỳ trung nghị luận như hạ:”
Hearing this, the bhikkhus said to the Blessed One:
“Venerable Sir, here, when the night had just passed, we gathered in the circular hall after rising, and among us the following discussion arose:”
⸻
4.
“Này các Hiền giả, thật kỳ diệu thay! Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Thế Tôn, đấng Toàn Tri, Toàn Kiến, đấng A-la-hán, bậc Chánh Ðẳng Giác, đã thấu hiểu sự xu hướng sai khác của chúng sanh. Suppiya, kẻ du sĩ ngoại đạo này dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng. Còn đệ tử du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta lại dùng vô số phương tiện, tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng. Như vậy cả hai thầy trò đã nói những lời hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo”.
「諸賢者,如此奇妙!諸賢者,如此希有!
世尊,全知全見、阿羅漢、正等覺者,已洞達眾生諸異傾向。
此外道蘇毘耶以無量方便毀謗佛、法、僧;
而其弟子青年婆羅門達多則以無量方便讚歎佛、法、僧。
師徒二人隨在世尊與比丘眾後,互說全然相反之語。」
“Zhū xiánzhě, rúcǐ qímiào! Zhū xiánzhě, rúcǐ xīyǒu!
Shìzūn, quánzhī quánjiàn, Āluóhàn, zhèngděng jué zhě, yǐ dòngdá zhòngshēng zhū yì qīngxiàng.
Cǐ wàidào Sūpíyé yǐ wúliàng fāngbiàn huǐbàng Fó, Fǎ, Sēng;
Ér qí dìzǐ qīngnián Póluóméndátuō zé yǐ wúliàng fāngbiàn zàntàn Fó, Fǎ, Sēng.
Shītú èr rén suí zài Shìzūn yǔ bǐqiū zhòng hòu, hù shuō quánrán xiāngfǎn zhī yǔ.”
“Chư Hiền giả, như thử kỳ diệu! Chư Hiền giả, như thử hy hữu!
Thế Tôn, Toàn Tri Toàn Kiến, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giả, dĩ động đạt chúng sanh chư dị khuynh hướng.
Thử ngoại đạo Tô-bì-da dĩ vô lượng phương tiện hủy báng Phật, Pháp, Tăng;
Nhi kỳ đệ tử thanh niên Bà-la-môn Đạt-đa tắc dĩ vô lượng phương tiện tán thán Phật, Pháp, Tăng.
Sư đồ nhị nhân tùy tại Thế Tôn dữ Tỷ-kheo chúng hậu, hỗ thuyết toàn nhiên tương phản chi ngữ.”
“Venerable sirs, how wonderful! How rare! The Blessed One, the All-knowing, All-seeing, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, has understood the diverse tendencies of beings. Suppiya, this outsider ascetic, used countless ways to slander the Buddha, Dhamma, and Saṅgha; while his disciple, the young Brahmadatta, used countless ways to praise the Buddha, Dhamma, and Saṅgha. Thus the teacher and the disciple spoke entirely opposite words while walking behind the Blessed One and the community of monks.”
⸻
5.
“Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang bàn đến nửa chừng của chúng con khi Thế Tôn đến!”
「世尊!此乃我等議論之半途時,世尊便至。」
“Shìzūn! Cǐ nǎi wǒděng yìlùn zhī bàntú shí, Shìzūn biàn zhì.”
“Thế Tôn! Thử nãi ngã đẳng nghị luận chi bán đồ thời, Thế Tôn tiện chí.”
“Blessed One, this was the discussion we were engaged in halfway when you arrived.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Gian nhà hình tròn: giảng đường tròn, nơi họp chúng.
Dự trí: chuẩn bị sẵn.
Vấn đề bỏ dở: điều đang bàn mà chưa kết thúc.
Bạch Thế Tôn: lời cung kính thưa với Đức Phật.
Nửa chừng: đang dang dở, chưa xong.
Khuynh hướng: xu hướng tâm lý của chúng sanh.
Hiền giả: người có đức hạnh.
Hy hữu: hiếm gặp.
Toàn Tri – Toàn Kiến: biết và thấy tất cả.
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đoạn này mô tả sự tế nhị của Đức Phật: Ngài không can thiệp ngay mà chờ cho chư Tăng tự bàn luận, rồi mới hỏi để làm rõ vấn đề.
This passage shows the Buddha’s subtle approach: He did not interrupt immediately but let the monks discuss, then asked to clarify the matter.
Chư Tăng kể lại câu chuyện về Suppiya và Brahmadatta — một người phỉ báng Tam Bảo và một người tán thán Tam Bảo — như một biểu hiện của sự khác biệt sâu xa trong tâm thức con người.
The monks recounted the story of Suppiya and Brahmadatta—one slandering the Triple Gem and the other praising it—as an example of deep variations in human tendencies.
Sự việc này là duyên khởi để Đức Phật giảng dạy phần quan trọng tiếp theo trong Kinh Phạm Võng.
This incident serves as the condition for the Buddha to deliver the significant teachings that follow in the Brahmajāla Sutta.
1.
– Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn.
諸比丘,若有人毀謗我、毀謗法、毀謗僧,汝等莫因此生瞋恚、憤怒、憂惱。
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén huǐbàng wǒ, huǐbàng Fǎ, huǐbàng Sēng, rǔděng mò yīncǐ shēng chēnhuì, fènnù, yōunǎo.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân hủy báng ngã, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng, nhữ đẳng mạc nhân thử sanh sân hận, phẫn nộ, ưu não.
“Bhikkhus, if anyone speaks ill of me, of the Dhamma, or of the Saṅgha, you should not because of that give rise to anger, resentment, or mental distress.”
⸻
2.
Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi.
諸比丘,若有人毀謗我、法、僧,而汝等生瞋恚、憤怒、憂惱,則於汝等自有損害。
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén huǐbàng wǒ, Fǎ, Sēng, ér rǔděng shēng chēnhuì, fènnù, yōunǎo, zé yú rǔděng zì yǒu sǔnhài.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân hủy báng ngã, Pháp, Tăng, nhi nhữ đẳng sanh sân hận, phẫn nộ, ưu não, tắc ư nhữ đẳng tự hữu tổn hại.
“Bhikkhus, if anyone slanders me, the Dhamma, or the Saṅgha, and you become angry or upset, that will only bring harm to you.”
⸻
3.
Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi công phẫn và phiền muộn, thời các ngươi có thể biết được lời nói của những kẻ ấy là đúng hay sai lạc chăng?
若有人毀謗我、法、僧,而汝等起瞋恚憂惱,汝等能知其言為實為謬乎?
Ruò yǒurén huǐbàng wǒ, Fǎ, Sēng, ér rǔděng qǐ chēnhuì yōunǎo, rǔděng néng zhī qí yán wéi shí wéi miù hū?
Nhược hữu nhân hủy báng ngã, Pháp, Tăng, nhi nhữ đẳng khởi sân hận ưu não, nhữ đẳng năng tri kỳ ngôn vi thật vi mậu hồ?
“If people slander me, the Dhamma, or the Saṅgha, and you respond with anger and distress—will you be able to discern whether their words are true or false?”
⸻
4.
– Bạch Thế Tôn, không thể được!
世尊,不能也!
Shìzūn, bùnéng yě!
Thế Tôn, bất năng dã!
“Blessed One, no, we cannot!”
⸻
5.
– Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật:
“Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi”.
諸比丘,若有人毀謗我、法、僧,汝等應如實宣說其不真實處:
「如是,此事不真;如是,此說不確;此事不在我等之中;此事未曾於我等之間發生。」
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén huǐbàng wǒ, Fǎ, Sēng, rǔděng yīng rúshí xuānshuō qí bù zhēnshí chù:
“Rú shì, cǐ shì bù zhēn; rú shì, cǐ shuō bù què; cǐ shì bù zài wǒděng zhī zhōng; cǐ shì wèi céng yú wǒděng zhī jiān fāshēng.”
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân hủy báng ngã, Pháp, Tăng, nhữ đẳng ưng như thật tuyên thuyết kỳ bất chân thật xứ:
“Như thị, thử sự bất chân; như thị, thử thuyết bất xác; thử sự bất tại ngã đẳng chi trung; thử sự vị tằng ư ngã đẳng chi gian phát sanh.”
“Bhikkhus, when someone slanders me, the Dhamma, or the Saṅgha, you should truthfully point out which parts are false:
‘This is not true; this point is incorrect; this matter does not exist among us; this has never happened within our community.’”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Hủy báng: phỉ báng, nói xấu, xuyên tạc.
Công phẫn: tức giận, phẫn uất.
Tức tối: bực bội, sân hận.
Phiền muộn: tâm buồn rầu, bất mãn.
Tổn hại: điều gây hại cho thân tâm.
Như thật: đúng sự thật, chân thật.
Không đúng sự thật: sai lệch, không chính xác.
Chưa từng xảy ra: việc không có thật.
⸻
📖 CHÚ GIẢI SONG NGỮ VIỆT – ANH
Đức Phật dạy rằng phản ứng cảm xúc trước lời phỉ báng chỉ làm hại chính mình, che mờ trí tuệ và khiến ta không còn phân biệt đúng – sai.
The Buddha teaches that reacting emotionally to slander harms oneself, clouds wisdom, and prevents one from distinguishing truth from falsehood.
Thay vì nổi sân, người tu cần bình tĩnh và chỉ rõ phần nào không đúng sự thật — không tranh cãi, không oán hận, chỉ đơn thuần nói đúng sự thật.
Instead of anger, practitioners should calmly clarify what is untrue—not arguing or resenting, but simply stating the facts.
Đây là bài học sâu sắc về chánh ngữ, chánh niệm và xử lý xung đột theo tinh thần từ bi – trí tuệ của Phật giáo.
This is a profound teaching on Right Speech, mindfulness, and conflict resolution aligned with the Buddhist spirit of compassion and wisdom.
1.
Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú.
諸比丘,若有人讚歎我、讚歎法、讚歎僧,汝等亦不應因此生歡喜、悅樂、心生愛著。
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén zàntàn wǒ, zàntàn Fǎ, zàntàn Sēng, rǔděng yì bù yīncǐ shēng huānxǐ, yuèlè, xīn shēng àizhuó.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân tán thán ngã, tán thán Pháp, tán thán Tăng, nhữ đẳng diệc bất ưng nhân thử sanh hoan hỷ, duyệt lạc, tâm sanh ái trước.
“Bhikkhus, if anyone praises me, praises the Dhamma, or praises the Saṅgha, you should not therefore become delighted, joyful, or inwardly attached.”
⸻
2.
Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, mà nếu các ngươi hoan hỷ, vui mừng và thích thú thời sẽ có hại cho các ngươi.
諸比丘,若有人讚歎我、法、僧,而汝等生歡喜、悅樂、愛著,則於汝等自有損害。
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén zàntàn wǒ, Fǎ, Sēng, ér rǔděng shēng huānxǐ, yuèlè, àizhuó, zé yú rǔděng zì yǒu sǔnhài.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân tán thán ngã, Pháp, Tăng, nhi nhữ đẳng sanh hoan hỷ, duyệt lạc, ái trước, tắc ư nhữ đẳng tự hữu tổn hại.
“Bhikkhus, if anyone praises me, the Dhamma, or the Saṅgha, and if you become pleased, joyful, or attached, that will bring harm to you.”
⸻
3.
Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các ngươi hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật:
‘Như thế này, điểm này đúng sự thật; như thế này, điểm này chính xác; việc này có giữa chúng tôi; việc này đã xảy ra giữa chúng tôi’.
諸比丘,若有人讚歎我、法、僧,汝等應如實承認其真實之處:
「如是,此事為真;如是,此說正確;此事實在我等之中;此事曾於我等之間發生。」
Zhū bǐqiū, ruò yǒurén zàntàn wǒ, Fǎ, Sēng, rǔděng yīng rúshí chéngrèn qí zhēnshí zhī chù:
“Rú shì, cǐ shì wéi zhēn; rú shì, cǐ shuō zhèngquè; cǐ shì shízài wǒděng zhī zhōng; cǐ shì céng yú wǒděng zhī jiān fāshēng.”
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu nhân tán thán ngã, Pháp, Tăng, nhữ đẳng ưng như thật thừa nhận kỳ chân thật xứ:
“Như thị, thử sự vi chân; như thị, thử thuyết chánh xác; thử sự thật tại ngã đẳng chi trung; thử sự tằng ư ngã đẳng chi gian phát sanh.”
“Bhikkhus, when someone praises me, the Dhamma, or the Saṅgha, you should acknowledge only what is true as true:
‘This is indeed true; this point is accurate; this exists among us; this has happened among us.’”
⸻
4.
Này các Tỷ-kheo, thật chỉ thuộc các vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
諸比丘,凡夫之人所讚歎如來者,皆是些許微細、不重要、僅屬戒律之事。
Zhū bǐqiū, fánfū zhī rén suǒ zàntàn Rúlái zhě, jiē shì xiēxǔ wéixì, bù zhòngyào, jǐn shǔ jièlǜ zhī shì.
Chư Tỷ-kheo, phàm phu chi nhân sở tán thán Như Lai giả, giai thị ta tử vi tế, bất trọng yếu, cận thuộc giới luật chi sự.
“Bhikkhus, it is only trivial, unimportant matters—merely matters of discipline—that ordinary worldly people praise in the Tathāgata.”
⸻
5.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là những vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu tán thán Như Lai?
諸比丘,何者是凡夫所讚歎如來之些許、不重要、僅屬戒律之事?
Zhū bǐqiū, hézhě shì fánfū suǒ zàntàn Rúlái zhī xiēxǔ, bù zhòngyào, jǐn shǔ jièlǜ zhī shì?
Chư Tỷ-kheo, hà giả thị phàm phu sở tán thán Như Lai chi ta tử, bất trọng yếu, cận thuộc giới luật chi sự?
“Bhikkhus, and what are these trivial, minor, merely disciplinary matters that worldly people praise in the Tathāgata?”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Tán thán: ca ngợi, khen ngợi.
Hoan hỷ: vui mừng trong lòng.
Thích thú / ái trước: tâm đắm vào sự khen ngợi.
Không quan trọng / nhỏ nhặt: điều vụn vặt, không phải cốt lõi.
Giới luật: quy tắc hành trì của Tăng đoàn.
Phàm phu: người chưa giác ngộ, người thế tục.
Như Lai: danh hiệu của Đức Phật, bậc đã giác ngộ hoàn toàn.
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đức Phật dạy rằng cũng như lời chê bai, lời ca ngợi cũng có thể làm lệch tâm người tu nếu chấp vào cảm xúc vui thích.
The Buddha teaches that, just like criticism, praise can also disturb practitioners if they cling to the pleasant emotion.
Người tu chỉ nên thừa nhận sự thật một cách tỉnh giác, không đắm trước, không để lời khen khiến tâm cao ngạo hay vui mừng quá mức.
Practitioners should simply acknowledge what is true with mindfulness, without attachment, pride, or emotional excitement.
Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng người đời thường chỉ thấy và khen những điều nhỏ nhặt, như giới luật bề ngoài, chứ không hiểu sâu được trí tuệ và giải thoát của Như Lai.
The Buddha further emphasizes that ordinary people usually praise only superficial disciplinary aspects, without understanding the profound wisdom and liberation of the Tathāgata.
(Phần: Tiểu Giới – Minor Precepts Praised by the Worldly)
⸻
1. (Từ bỏ sát sanh)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. — Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離殺生,遠離殺生,捨杖捨刀,知慚愧,具慈心,常憐愍一切眾生有情之安樂。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí shāshēng, yuǎnlí shāshēng, shě zhàng shě dāo, zhī cáo kuì, jù cíxīn, cháng liánmǐn yīqiè zhòngshēng yǒuqíng zhī ānlè. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly sát sanh, viễn ly sát sanh, xả trượng xả đao, tri tàm quý, cụ từ tâm, thường liên mẫn nhất thiết chúng sanh hữu tình chi an lạc. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abandons killing, refrains from killing, lays aside rod and sword, is conscientious and compassionate, and dwells with kindness for the welfare of all beings. — Bhikkhus, this is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
2. (Từ bỏ lấy của không cho)
Sa-môn Gotama từ bỏ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm cướp. — Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離不與取,遠離不與取,但取所與之物,但望所施之物,自住清淨無有盜竊。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí bù yǔ qǔ, yuǎnlí bù yǔ qǔ, dàn qǔ suǒ yǔ zhī wù, dàn wàng suǒ shī zhī wù, zì zhù qīngjìng wú yǒu dàoqiè. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly bất dữ thủ, viễn ly bất dữ thủ, đản thủ sở dữ chi vật, đản vọng sở thí chi vật, tự trụ thanh tịnh vô hữu đạo thiết. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abandons taking what is not given… lives purely without stealing. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
3. (Từ bỏ tà hạnh – giữ phạm hạnh)
Sa-môn Gotama từ bỏ tà hạnh, tịnh tu phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. — Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離邪行,清淨修梵行,住於解脫,遠離卑賤欲行。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí xiéháng, qīngjìng xiū fànháng, zhù yú jiětuō, yuǎnlí bījiàn yùxíng. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly tà hạnh, thanh tịnh tu phạm hạnh, trụ ư giải thoát, viễn ly ti tiện dục hạnh. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abandons sexual misconduct, lives the holy life in purity, freed from low sensual conduct. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
4. (Từ bỏ nói láo – nói thật)
Sa-môn Gotama từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. — Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離妄語,遠離妄語,言語真實,依於真實,堅定可信,不欺詐,不違失世間之信諾。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí wàngyǔ, yuǎnlí wàngyǔ, yányǔ zhēnshí, yī yú zhēnshí, jiāndìng kěxìn, bù qīzhà, bù wéishī shìjiān zhī xìnnuò. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly vọng ngữ, viễn ly vọng ngữ, ngôn ngữ chân thật, y ư chân thật, kiên định khả tín, bất khi trá, bất vi thất thế gian chi tín诺. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abandons false speech, speaks truth, is reliable, trustworthy, not deceitful, and does not break his word. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
5. (Từ bỏ nói hai lưỡi – tạo hòa hợp)
Sa-môn Gotama từ bỏ nói hai lưỡi… sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ đã hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. — Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離兩舌,遠離兩舌;於此聞者,不往彼處挑起離間;於彼聞者,不往此處造成分裂。
如是瞿曇沙門和合離散者,增益已和合者,歡喜於和合,說能導致和合之語。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí liǎngshé, yuǎnlí liǎngshé; yú cǐ wén zhě, bù wǎng bǐ chù tiāoqǐ líjiàn; yú bǐ wén zhě, bù wǎng cǐ chù zàochéng fēnliè.
Rú shì Qútán shāmén héhé lí sàn zhě, zēngyì yǐ héhé zhě, huānxǐ yú héhé, shuō néng dǎozhì héhé zhī yǔ. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly lưỡng thiệt, viễn ly lưỡng thiệt… như thị Cù-đàm Sa-môn hòa hợp ly tán giả, tăng ích dĩ hòa hợp giả, hoan hỷ ư hòa hợp, thuyết năng đạo chí hòa hợp chi ngữ. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abandons divisive speech… brings harmony to the quarrelling, strengthens those already united, rejoices in harmony, and speaks words that foster concord. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Sa-môn: vị xuất gia tu khổ hạnh.
Từ bỏ sát sanh: không giết hại sinh mạng.
Tàm quý: biết hổ thẹn với điều xấu.
Hữu tình: chúng sinh có cảm thọ.
Bất dữ thủ: lấy của không cho.
Tà hạnh: hành vi bất thiện liên quan đến dục.
Phạm hạnh: đời sống thanh tịnh, không dục.
Vọng ngữ: nói dối.
Lưỡng thiệt: nói hai lưỡi, gây chia rẽ.
Hòa hợp: đoàn kết, không tranh chấp.
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Những điều mà người đời khen ngợi Đức Phật chỉ là các giới hạnh bề ngoài: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không nói hai lưỡi.
What worldly people praise in the Buddha are merely the external moral disciplines: refraining from killing, stealing, sexual misconduct, lying, and divisive speech.
Đức Phật gọi chúng là “nhỏ nhặt” vì đó chỉ là phần nổi của đạo đức, chưa phải trí tuệ hay giải thoát.
The Buddha calls them “minor” because they are only the surface of morality, not yet wisdom or liberation.
Tuy vậy, các giới này là nền móng cần thiết để bước vào con đường thánh đạo.
Nevertheless, these precepts form the essential foundation for entering the noble path.
1. (Từ bỏ lời nói độc ác – nói lời hiền hòa)
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thấm vào tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người; Sa-môn Gotama nói những lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
諸比丘,瞿曇沙門捨離惡口,遠離惡口,言無過失,悅耳可親,入心柔和,雅馴和悅,令多人喜悅;瞿曇沙門常說如是之語。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Zhū bǐqiū, Qútán shāmén shělí èkǒu, yuǎnlí èkǒu, yán wú guòshī, yuè’ěr kěqīn, rùxīn róuhé, yǎxún héyuè, lìng duōrén xǐyuè; Qútán shāmén cháng shuō rúshì zhī yǔ. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Chư Tỷ-kheo, Cù-đàm Sa-môn xả ly ác khẩu, viễn ly ác khẩu, ngôn vô quá thất, duyệt nhĩ khả thân, nhập tâm nhu hòa, nhã thuần hòa duyệt, lịnh đa nhân hỉ duyệt; Cù-đàm Sa-môn thường thuyết như thị chi ngữ. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“Bhikkhus, the ascetic Gotama abandons harsh speech, refrains from harsh speech, speaks blameless words—pleasant, endearing, penetrating the heart, refined, agreeable to many, pleasing to many. The ascetic Gotama speaks such words. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
2. (Từ bỏ ỷ ngữ – nói đúng thời, đúng pháp)
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama từ bỏ lời nói ỷ ngữ, tránh xa lời nói ỷ ngữ, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.—Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
諸比丘,瞿曇沙門捨離綺語,遠離綺語;說於適時,語真實,語有義,說正法,說律制,言當守護,語合時宜,順於道理,條理分明,有所饒益。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Zhū bǐqiū, Qútán shāmén shělí qǐyǔ, yuǎnlí qǐyǔ; shuō yú shìshí, yǔ zhēnshí, yǔ yǒuyì, shuō zhèngfǎ, shuō lǜzhì, yán dāng shǒuhù, yǔ hé shíyí, shùn yú dàolǐ, tiáolǐ fēnmíng, yǒu suǒ ráoyì. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Chư Tỷ-kheo, Cù-đàm Sa-môn xả ly ỷ ngữ, viễn ly ỷ ngữ; thuyết ư thích thời, ngữ chân thật, ngữ hữu nghĩa, thuyết chánh pháp, thuyết luật chế, ngôn đương thủ hộ, ngữ hợp thời nghi, thuận ư đạo lý, điều lý phân minh, hữu sở nhiêu ích. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“Bhikkhus, the ascetic Gotama abandons idle chatter, refrains from idle chatter; he speaks at the right time, speaks truth, speaks what is meaningful, speaks on the Dhamma, speaks on the Discipline; he speaks words worth preserving, timely, reasonable, systematic, and beneficial. — This is the worldly praise of the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Ác khẩu: lời nói thô bạo, xúc phạm.
Duyệt nhĩ: dễ nghe, êm tai.
Nhu hòa: dịu dàng, mềm mại.
Nhã thuần: thanh tao, thuần hậu.
Ỷ ngữ: lời nói phù phiếm, vô nghĩa.
Thích thời: đúng thời điểm, phù hợp.
Chân thật: đúng sự thật.
Hữu nghĩa: có ý nghĩa, có nội dung.
Chánh pháp: giáo pháp chân chính.
Luật chế: giới luật, quy tắc.
Hợp thời – thuận lý: đúng thời điểm, phù hợp chân lý.
Điều lý phân minh: mạch lạc, rõ ràng.
Nhiêu ích: có lợi ích, đem lại lợi lạc.
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Người đời khen Đức Phật vì Ngài nói năng hiền hòa, không dùng lời thô ác, khiến ai nghe cũng an ổn, dễ chịu.
People praise the Buddha because He speaks gently, without harsh words, bringing ease and comfort to those who listen.
Họ cũng khen rằng Ngài không bao giờ nói lời vô nghĩa; lời nào nói ra cũng đúng lúc, đúng pháp, có ích và có trọng lượng.
They also praise Him for never engaging in meaningless talk; whatever He says is timely, meaningful, doctrinal, disciplined, and beneficial.
Nhưng Đức Phật nhấn mạnh: đây chỉ là những điểm nhỏ nhặt mà người phàm có thể nhìn thấy—chỉ là phần bên ngoài của đạo hạnh Như Lai.
But the Buddha emphasizes: these are only minor external aspects that ordinary people can perceive—merely the surface of the Tathāgata’s virtue.
1. (Không hại hạt giống và cây cỏ)
Sa-môn Gotama không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ.
瞿曇沙門不損害諸種子與諸草木。
Qútán shāmén bù sǔnhài zhū zhǒngzǐ yǔ zhū cǎomù.
Cù-đàm Sa-môn bất tổn hại chư chủng tử dữ chư thảo mộc.
“The ascetic Gotama does not harm seeds or plants.”
⸻
2. (Ăn một bữa, không ăn phi thời)
Sa-môn Gotama dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn phi thời.
瞿曇沙門一日一食,不食夜分,遠離夜食,遠離非時之食。
Qútán shāmén yī rì yī shí, bù shí yè fēn, yuǎnlí yèshí, yuǎnlí fēishí zhī shí.
Cù-đàm Sa-môn nhất nhật nhất thực, bất thực dạ phần, viễn ly dạ thực, viễn ly phi thời chi thực.
“The ascetic Gotama eats one meal a day, does not eat at night, and abstains from untimely eating.”
⸻
3. (Không xem múa hát, nhạc, kịch)
Sa-môn Gotama từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch.
瞿曇沙門捨離觀舞、聽歌、聽樂、觀戲。
Qútán shāmén shělí guānwǔ, tīnggē, tīngyuè, guānxì.
Cù-đàm Sa-môn xả ly quan vũ, thính ca, thính nhạc, quan hí.
“The ascetic Gotama abstains from watching dancing, singing, music, and shows.”
⸻
4. (Không trang sức, không dùng hương liệu)
Sa-môn Gotama từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang.
瞿曇沙門捨離花鬘、香氣、塗油及諸裝飾。
Qútán shāmén shělí huāmán, xiāngqì, túyóu jí zhū zhuāngshì.
Cù-đàm Sa-môn xả ly hoa man, hương khí, đồ du, cập chư trang sức.
“The ascetic Gotama abstains from garlands, perfumes, ointments, and adornments.”
⸻
5. (Không dùng giường cao, giường lớn)
Sa-môn Gotama từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn.
瞿曇沙門捨離高大之床座。
Qútán shāmén shělí gāo dà zhī chuángzuò.
Cù-đàm Sa-môn xả ly cao đại chi sàng tòa.
“The ascetic Gotama abstains from high and luxurious beds.”
⸻
6. (Không nhận vàng bạc)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận vàng và bạc.
瞿曇沙門捨離受金銀。
Qútán shāmén shělí shòu jīnyín.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ kim ngân.
“The ascetic Gotama abstains from accepting gold and silver.”
⸻
7. (Không nhận hạt giống)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận các hạt giống.
瞿曇沙門捨離受諸種子。
Qútán shāmén shělí shòu zhū zhǒngzǐ.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ chư chủng tử.
“The ascetic Gotama abstains from accepting seeds.”
⸻
8. (Không nhận thịt sống)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận thịt sống.
瞿曇沙門捨離受生肉。
Qútán shāmén shělí shòu shēngròu.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ sinh nhục.
“The ascetic Gotama abstains from accepting raw meat.”
⸻
9. (Không nhận phụ nữ và trẻ gái)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận đàn bà, con gái.
瞿曇沙門捨離受女人、少女。
Qútán shāmén shělí shòu nǚrén, shàonǚ.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ nữ nhân, thiếu nữ.
“The ascetic Gotama abstains from accepting women or girls.”
⸻
10. (Không nhận nô tỳ nam, nữ)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai.
瞿曇沙門捨離受女僕、男僕。
Qútán shāmén shělí shòu nǚpú, nánpú.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ nữ bộc, nam bộc.
“The ascetic Gotama abstains from accepting female or male servants.”
⸻
11. (Không nhận gia súc nhỏ: cừu dê)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận cừu và dê.
瞿曇沙門捨離受羊與羝。
Qútán shāmén shělí shòu yáng yǔ dī.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ dương dữ đề.
“The ascetic Gotama abstains from accepting sheep and goats.”
⸻
12. (Không nhận gia cầm và heo)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận gia cầm và heo.
瞿曇沙門捨離受鳥與豕。
Qútán shāmén shělí shòu niǎo yǔ shǐ.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ điểu dữ thỉ.
“The ascetic Gotama abstains from accepting fowl and pigs.”
⸻
13. (Không nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái.
瞿曇沙門捨離受象、牛、馬、牝馬。
Qútán shāmén shělí shòu xiàng, niú, mǎ, pìnmǎ.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ tượng, ngưu, mã, tẫn mã.
“The ascetic Gotama abstains from accepting elephants, cattle, horses, and mares.”
⸻
14. (Không nhận đất đai)
Sa-môn Gotama từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai.
瞿曇沙門捨離受田地土壤。
Qútán shāmén shělí shòu tiándì tǔrǎng.
Cù-đàm Sa-môn xả ly thọ điền địa thổ nhương.
“The ascetic Gotama abstains from accepting fields and lands.”
⸻
15. (Không làm môi giới)
Sa-môn Gotama từ bỏ không phái người môi giới hoặc tự mình làm môi giới.
瞿曇沙門捨離遣使為媒或自作媒介。
Qútán shāmén shělí qiǎnshǐ wéi méi huò zì zuò méijiè.
Cù-đàm Sa-môn xả ly khiển sử vi môi hoặc tự tác môi giới.
“The ascetic Gotama abstains from sending agents or acting as a go-between.”
⸻
16. (Không buôn bán)
Sa-môn Gotama từ bỏ không buôn bán.
瞿曇沙門捨離諸商賈。
Qútán shāmén shělí zhū shānggǔ.
Cù-đàm Sa-môn xả ly chư thương cổ.
“The ascetic Gotama abstains from trade.”
⸻
17. (Không gian lận cân đo đong đếm)
Sa-môn Gotama từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường.
瞿曇沙門捨離秤欺、財欺、量欺。
Qútán shāmén shělí chèng qī, cái qī, liàng qī.
Cù-đàm Sa-môn xả ly xứng khi, tài khi, lượng khi.
“The ascetic Gotama abstains from cheating with scales, wealth, or measurements.”
⸻
18. (Không tà hạnh: hối lộ, lừa đảo)
Sa-môn Gotama từ bỏ các tà hạnh, như hối lộ, gian trá, lừa đảo.
瞿曇沙門捨離諸邪行,如賄賂、欺詐、詭騙。
Qútán shāmén shělí zhū xiéháng, rú huìlù, qīzhà, guǐpiàn.
Cù-đàm Sa-môn xả ly chư tà hạnh, như hối lộ, khi trá, quỷ biện.
“The ascetic Gotama abstains from corrupt behavior such as bribery, deceit, and fraud.”
⸻
19. (Không bạo lực và trộm cướp)
Sa-môn Gotama từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. — Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
瞿曇沙門捨離不作傷害、殺害、拘捕、奪取、盜竊、劫掠。——諸比丘,此是凡夫讚歎如來。
Qútán shāmén shělí bù zuò shānghài, shāhài, jūbǔ, duóqǔ, dàoqiè, jiélüè. — Zhū bǐqiū, cǐ shì fánfū zàntàn Rúlái.
Cù-đàm Sa-môn xả ly bất tác thương hại, sát hại, câu bổ, đoạt thủ, đạo thiết, kiếp lược. — Chư Tỷ-kheo, thử thị phàm phu tán thán Như Lai.
“The ascetic Gotama abstains from harming, killing, binding, seizing, stealing, and plundering. — Bhikkhus, these are the worldly praises of the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Hạt giống – chủng tử
Cây cỏ – thảo mộc
Phi thời – không đúng giờ
Múa hát – vũ ca
Trang sức – hoa man, hương, dầu thoa
Giường cao lớn – cao đại sàng tòa
Vàng bạc – kim ngân
Hối lộ – huệ lộ
Gian trá – khi trá
Câu thúc – bắt giữ, giam
Bức đoạt – cướp đoạt
Kiếp lược – cướp phá
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Tất cả các điều trên chỉ là những giới hạnh bên ngoài mà người phàm có thể quan sát và tán thán: không gây hại, sống đơn giản, không sở hữu, không buôn bán, không lừa đảo, không bạo lực.
All these are merely external moral disciplines observable to worldly people: non-harm, simplicity, non-possession, non-trading, non-deceit, and non-violence.
Nhưng đối với Đức Phật, đây chỉ là “tiểu giới” — phần nhỏ trong giáo pháp, không phải là trí tuệ hay giải thoát.
But for the Buddha, these are “minor precepts”—small aspects of the teaching, not yet wisdom or liberation.
Ngài chuẩn bị chuyển sang phần chính của Kinh Phạm Võng: giảng về 62 kiến chấp của thế gian.
He is preparing to shift to the main part of the Brahmajāla Sutta: the exposition on the 62 speculative views found in the world.
1. (Không hại hạt giống – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống làm hại các hạt giống và cây cối. Như các hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ ngành cây sanh, hạt giống từ đất sanh, hạt giống từ chiết cây sanh và thứ năm là hạt giống từ hạt giống sanh. Còn Sa-môn Gotama thì không làm hại hột giống hay cây cối nào. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門,雖受信施飲食,猶作損害諸種子與草木:如根生種子、枝生種子、土生種子、斷枝生種子,及第五者由種子再生之種子。
然瞿曇沙門則不損害任何種子與草木。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén, suī shòu xìnshī yǐnshí, yóu zuò sǔnhài zhū zhǒngzǐ yǔ cǎomù: rú gēnshēng zhǒngzǐ, zhīshēng zhǒngzǐ, tǔshēng zhǒngzǐ, duànzhī shēng zhǒngzǐ, jí dì wǔ zhě yóu zhǒngzǐ zàishēng zhī zhǒngzǐ.
Rán Qútán shāmén zé bù sǔnhài rènhé zhǒngzǐ yǔ cǎomù. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn, tuy thọ tín thí ẩm thực, do tác tổn hại chư chủng tử dữ thảo mộc: như căn sanh chủng tử, chi sanh chủng tử, thổ sanh chủng tử, đoạn chi sanh chủng tử, cập đệ ngũ giả do chủng tử tái sanh chi chủng tử.
Nhi Cù-đàm Sa-môn tắc bất tổn hại nhất thiết chủng tử dữ thảo mộc. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins, though supported by the faithful, still harm seeds and plants … the ascetic Gotama harms no seed or plant. — Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Không cất chứa – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống cất chứa và thọ hưởng các đồ vật… Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ không cất chứa các vật trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門雖受信施飲食,猶積聚並享受諸物:
積聚飲食、積聚飲料、積聚衣服、積聚車乘、積聚臥具、積聚香料、積聚美味。
然瞿曇沙門捨離一切積聚受用之物。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén suī shòu xìnshī yǐnshí, yóu jījù bìng xiǎngshòu zhū wù:
jījù yǐnshí, jījù yǐnliào, jījù yīfú, jījù chēchéng, jījù wòjù, jījù xiāngliào, jījù měiwèi.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè jījù shòuyòng zhī wù. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ tín thí ẩm thực, do tích tụ cập hưởng dụng chư vật:
tích tụ ẩm thực, tích tụ ẩm liệu, tích tụ y phục, tích tụ xa thặng, tích tụ ngọ cụ, tích tụ hương liệu, tích tụ mỹ vị.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết tích tụ thọ dụng chi vật. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins accumulate and enjoy stored goods … the ascetic Gotama abstains from all such storing. — Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
3. (Không tham dự các trò giải trí – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống theo các du hí không chân chánh như múa, hát, nhạc, kịch, ngâm vịnh… đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu… diễn binh. Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ các loại du hí không chân chánh như trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門… 猶隨從不正戲樂,如舞、歌、樂、戲、吟詠、拍手、咒誦、擊鼓、演仙戲、武技、鬥象、鬥馬、鬥牛、鬥羊、鬥山羊、鬥雞、鬥鵪鶉、鬥杖、鬥拳、角力、兵戰作勢、陳列軍容。
然瞿曇沙門捨離一切不正之戲樂。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu suí cóng bù zhèng xìlè, rú wǔ, gē, yuè, xì, yínyǒng, pāishǒu, zhòusòng, jīgǔ, yǎn xiānxì, wǔjì, dòu xiàng, dòu mǎ, dòu niú, dòu yáng, dòu shānyáng, dòu jī, dòu ānchún, dòu zhàng, dòu quán, jiǎolì, bīngzhàn zuòshì, chénliè jūnróng.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè bù zhèng zhī xìlè. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do tùy tùng bất chánh hí lạc, như vũ, ca, nhạc, hí, ngâm vịnh, phách thủ, chú tụng, kích cổ, diễn tiên hí, vũ kỹ, đấu tượng, đấu mã, đấu ngưu, đấu dương, đấu sơn dương, đấu kê, đấu an thuần, đấu trượng, đấu quyền, giác lực, binh chiến tác thế, trần liệt quân dung.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết bất chánh chi hí lạc. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins engage in improper games and entertainments … the ascetic Gotama abstains from all improper amusements. — Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Trung Giới: những giới trung bình, không nhỏ như tiểu giới nhưng vẫn là phần “ngoại hành”.
Chủng tử – hạt giống
Căn sanh – mọc từ rễ
Chi sanh – mọc từ cành
Thổ sanh – mọc từ đất
Chiết sanh – mọc từ chiết cành
Tích tụ – cất chứa
Hí lạc – trò giải trí
Vũ – múa
Hí – diễn kịch
Ngâm vịnh – đọc hát theo nhịp
Phách thủ – vỗ tay
Giác lực – đấu vật
Binh diễn – thao dượt quân trận
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đoạn Trung Giới mô tả những điều mà người phàm có thể quan sát thấy nơi Đức Phật: sống không gây hại, không tích trữ, không tham dự vui chơi vô ích.
The Middle Precepts describe things that ordinary people can directly observe in the Buddha: non-harm, non-accumulation, and abstention from frivolous entertainments.
Những điều này cao hơn Tiểu Giới, nhưng Đức Phật vẫn gọi đó là ‘nhỏ nhặt’, vì chúng chỉ liên hệ đến nếp sống, không liên hệ đến trí tuệ hay giải thoát.
These are higher than the Minor Precepts, yet still labeled “small” by the Buddha because they concern lifestyle, not wisdom or liberation.
Trong phần tiếp theo của kinh, Đức Phật sẽ đi sâu vào phần ‘Đại Giới’ trước khi bước sang phần chính: 62 kiến chấp.
In the following section, the Buddha will proceed to the “Great Precepts” before entering the main teaching: the 62 speculative views.
1. (Không đánh bài – không tham trò chơi vô bổ)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn … vẫn còn sống đánh bài và theo các trò giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không cho sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán chữ viết thiếu trên không hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu. Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ đánh bài và các loại giải trí như trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門雖受信施飲食,猶從事博奕及諸戲樂:
如八方棋、十方棋、空中棋、地面戲、踏格遊戲、擲片取片之戲(不得使片散亂)、擲骰、擊棒、以手為筆、投球、吹葉為笛、兒車之戲、小弓之戲、空書猜字、背書猜字、猜意之戲、模仿步態之戲。
然瞿曇沙門捨離一切博奕及諸戲樂。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén suī shòu xìnshī yǐnshí, yóu cóngshì bóyì jí zhū xìlè:
rú bā fāng qí, shí fāng qí, kōngzhōng qí, dìmiàn xì, tàgé yóuxì, zhí piàn qǔ piàn zhī xì (bùdé shǐ piàn sànluàn), zhìtóu, jíbàng, yǐ shǒu wéi bǐ, tóu qiú, chuī yè wéi dí, érchē zhī xì, xiǎogōng zhī xì, kōng shū cāizì, bèishū cāizì, cāi yì zhī xì, mófǎng bùtài zhī xì.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè bóyì jí zhū xìlè. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ tín thí ẩm thực, do tòng sự bác dịch cập chư hí lạc:
như bát phương kỳ, thập phương kỳ, không trung kỳ, địa diện hí, đạp cách du hí, trắc phiến thủ phiến chi hí (bất đắc sử phiến tán loạn), trắc sắc, kích bổng, dĩ thủ vi bút, đầu cầu, suy diệp vi địch, nhi xa chi hí, tiểu cung chi hí, không thư sai tự, bối thư sai tự, sai ý chi hí, mô phỏng bộ thái chi hí.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết bác dịch cập chư hí lạc. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins engage in gambling and various idle games … the ascetic Gotama abstains from all gambling and amusements. — Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Không dùng giường cao – xa hoa lộng lẫy)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn … vẫn còn sống dùng các giường cao và giường lớn như ghế bành, ghế dài, nệm len, vải trải nhiều lớp, chăn len trắng, chăn thêu bông, nệm bông, nệm thêu thú, mền lông thú hai mặt, mền lông thú một mặt, mền đính ngọc, mền bằng lụa, tấm thảm lớn chứa mười sáu người múa, nệm voi, nệm ngựa, nệm xe, nệm da sơn dương, nệm da sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ không dùng các giường cao và giường lớn như trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶使用高大華麗之床座:
如扶手寶座、長榻、毛氈床、重疊色布床、白毛毯、繡花毛毯、棉絮床、繡獸床、雙面獸皮毯、單面獸皮毯、珠飾毯、絲毯、可容十六人舞之大氍毹、象床、馬床、車床、羱羊皮床、名為伽陀梨之羱羊皮床、上有華蓋之鑲嵌床、足端染紅之長榻。
然瞿曇沙門捨離一切高大華麗之床座。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu shǐyòng gāodà huálì zhī chuángzuò:
rú fúshǒu bǎozuò, chángtà, máozhān chuáng, chóngdié sèbù chuáng, báimáotǎn, xiùhuā máotǎn, miánxù chuáng, xiùshòu chuáng, shuāngmiàn shòupí tǎn, dānmiàn shòupí tǎn, zhū shì tǎn, sī tǎn, kě róng shíliù rén wǔ zhī dà qúshū, xiàngchuáng, mǎchuáng, chēchuáng, yuányáng pí chuáng, míng wéi qiétuólí zhī yuányáng pí chuáng, shàng yǒu huágài zhī xiāngqiàn chuáng, zúduān rǎn hóng zhī chángtà.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè gāodà huálì zhī chuángzuò. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do sử dụng cao đại hoa lệ chi sàng tòa:
như phù thủ bảo tòa, trường tháp, mao chiên sàng, trùng điệp sắc bố sàng, bạch mao thản, tú hoa mao thản, miên tự sàng, tú thú sàng, song diện thú bì thản, đơn diện thú bì thản, châu sức thản, ti sàng, khả dung thập lục nhân vũ chi đại cừ sô, tượng sàng, mã sàng, xa sàng, viên dương bì sàng, danh vi Kiệt-đà-lị chi viên dương bì sàng, thượng hữu hoa cái chi tương khiếm sàng, túc đoan nhiễm hồng chi trường tháp.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết cao đại hoa lệ chi sàng tòa. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins use lofty, luxurious beds and couches … the ascetic Gotama abstains from all such elevated and ornate furniture. — Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Bác dịch: đánh bài, cờ bạc
Hí lạc: trò chơi
Cờ tám hình vuông: bát phương kỳ
Cờ mười hình vuông: thập phương kỳ
Không thư sai tự: đoán chữ viết trong không
Bối thư sai tự: đoán chữ viết trên lưng
Ý đoán: đoán tư tưởng
Mô phỏng bộ thái: bắt chước dáng đi
Cao đại hoa lệ: giường ghế cao sang
Cừ sô: thảm lớn dày
Viên dương: sơn dương
Kadali: loại da sơn dương đặc biệt
Hoa cái: màn che trang trí
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Người phàm khen Đức Phật vì Ngài không tham gia trò chơi, không đánh bạc, và không tiêu khiển vô bổ — điều mà nhiều Sa-môn, Bà-la-môn vẫn làm.
Ordinary people praise the Buddha because He avoids gambling and frivolous entertainments, unlike many ascetics and Brahmins.
Họ cũng khen rằng Ngài không sống xa hoa, không ham thích ghế giường cao sang — những thứ thể hiện địa vị hoặc sự hưởng thụ.
They also praise Him for avoiding luxurious beds and furnishings, which symbolize indulgence and status.
Nhưng Đức Phật xem đây chỉ là những chuẩn mực bên ngoài — chưa phải là trí tuệ, chưa phải là phần sâu của Đạo.
Yet the Buddha considers these merely external codes — not wisdom, not the profound essence of the Path.
1. (Không dùng trang sức, mỹ phẩm – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống dùng các đồ trang sức và mỹ phẩm như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân cho mềm dẻo, gương, kem đánh mặt, vòng hoa, phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng tay, tóc giả, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu, ngọc, phất trần, vải trắng có tua dài. Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ không dùng các loại trang sức và mỹ phẩm như trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶使用諸種裝飾與華美品:
如塗油、按摩、沐浴、拍手足使柔軟、鏡、面膏、花鬘與彩妝、面粉、面蠟、臂鐲、假髮、手杖、藥筒、刀劍、華蓋、繡履、頭巾、寶石、拂塵、長穗白布。
然瞿曇沙門捨離一切此等裝飾與華美品。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu shǐyòng zhū zhǒng zhuāngshì yǔ huáměi pǐn:
rú túyóu, ànmó, mùyù, pāi shǒuzú shǐ róuruǎn, jìng, miàngāo, huāmán yǔ cǎizhuāng, miànfěn, miànlà, bìzhuó, jiǎfà, shǒuzhàng, yàotǒng, dāojiàn, huágài, xiùlǚ, tóujīn, bǎoshí, fùchén, chángsuì báibù.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè cǐ děng zhuāngshì yǔ huáměi pǐn. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do sử dụng chư chủng trang sức dữ hoa mỹ phẩm:
như đồ du, án ma, mục dục, phách thủ túc sử nhu nhuyễn, kính, diện cao, hoa man dữ thái trang, diện phấn, diện lạp, tý trạc, giả phát, thủ trượng, dược đồng, đao kiếm, hoa cái, tú lý, đầu cân, bảo thạch, phất trần, trường tuệ bạch bố.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết thử đẳng trang sức dữ hoa mỹ phẩm. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins make use of adornments and cosmetics … the ascetic Gotama abstains from all such items. — Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Không nói chuyện vô ích – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống nói những câu chuyện vô ích, tầm thường như chuyện vua chúa, ăn trộm, đại thần, binh lính, chuyện hãi hùng, chiến tranh, đồ ăn, đồ uống, vải mặc, giường nằm, vòng hoa, hương liệu, bà con, xe cộ, làng xóm, thị tứ, thành phố, quốc độ, đàn bà, đàn ông, anh hùng, chuyện đường cái, chuyện chỗ lấy nước, chuyện người chết, chuyện tạp thoại, chuyện thời cuộc thế giới, chuyện đại dương, chuyện về hiện hữu hay không hiện hữu.
Còn Sa-môn Gotama từ bỏ không nói những câu chuyện vô ích, tầm thường kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶談論無益、卑瑣之語:
如王事、盜賊事、大臣事、軍士事、恐怖事、戰事、食事、飲事、衣事、臥具事、花鬘事、香料事、親族事、車乘事、村邑事、市鎮事、城郭事、國土事、婦女事、男子事、英雄事、道路邊事、汲水處事、死人事、雜談、世間現狀、大海現狀、有無之論。
然瞿曇沙門捨離一切無益卑瑣之語。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu tánlùn wúyì, bēisuǒ zhī yǔ:
rú wáng shì, dàozéi shì, dàchén shì, jūnshì shì, kǒngbù shì, zhàn shì, shí shì, yǐn shì, yī shì, wòjù shì, huāmán shì, xiāngliào shì, qīnzú shì, chēchéng shì, cūnyì shì, shìzhèn shì, chéngguō shì, guótǔ shì, fùnǚ shì, nánzǐ shì, yīngxióng shì, dàolù biān shì, jíshuǐ chù shì, sǐrén shì, zátán, shìjiān xiànzhuàng, dàhǎi xiànzhuàng, yǒuwú zhī lùn.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè wúyì bēisuǒ zhī yǔ. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do đàm luận vô ích ti bả chi ngữ:
như vương sự, đạo tặc sự, đại thần sự, quân sĩ sự, khủng bố sự, chiến sự, thực sự, ẩm sự, y sự, ngọ cụ sự, hoa man sự, hương liệu sự, thân tộc sự, xa thặng sự, thôn ấp sự, thị trấn sự, thành quách sự, quốc thổ sự, phụ nữ sự, nam tử sự, anh hùng sự, đạo lộ biên sự, cấp thủy xứ sự, tử nhân sự, tạp đàm, thế gian hiện trạng, đại hải hiện trạng, hữu vô chi luận.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết vô ích ti bả chi ngữ. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins indulge in idle, trivial, useless chatter about kings, wars, food, clothing, towns, women, heroes, the world, the ocean, existence and non-existence … the ascetic Gotama refrains from all such useless talk. — Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Trang sức – zhuangshi
Hoa mỹ phẩm – mỹ phẩm, đồ làm đẹp
Phất trần – cây phất bụi
Tua dài – trường tuệ
Đàm luận vô ích – tán gẫu tầm thường
Vương sự – chuyện vua chúa
Đạo tặc sự – chuyện trộm cướp
Khủng bố sự – chuyện hãi hùng
Thôn ấp – làng xóm
Thị trấn – thị tứ
Thành quách – thành phố cổ
Hữu vô luận – tranh luận hiện hữu – không hiện hữu
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đoạn này cho thấy sự khác biệt lớn giữa Đức Phật và các tu sĩ ngoại đạo: nhiều người tu mà vẫn bám vào cái đẹp, cái xa hoa, và lời nói vô bổ.
This section highlights the contrast between the Buddha and other ascetics: many still cling to adornments, luxury, and idle chatter.
Người phàm chỉ thấy các điều nhỏ bên ngoài, nên họ khen Đức Phật vì Ngài giản dị, không trang sức, không làm đẹp, không nói chuyện tạp nhạp.
Worldly people see only external behaviors, so they praise the Buddha for simplicity, abstention from beautification, and refraining from trivial talk.
Nhưng đây chỉ là phần “Trung Giới” — chưa phải trí tuệ, chưa phải giải thoát, chưa phải phần sâu sắc nhất của giáo pháp.
Yet these belong to the “Middle Precepts”—not wisdom, not liberation, not the deepest part of the Dhamma.
1. (Không tranh luận, đấu khẩu – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống bàn luận tranh chấp, như nói:
“Ngươi không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật này… Ngươi đã bị thuyết bại… Hãy đến mà giải vây lời nói ấy; nếu có thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí”.
Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ những cuộc biện luận tranh chấp đã kể trên.—Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶從事諸辯論爭競,言:
「汝不知此法此律,我乃知此法此律;汝云何能知?
汝墮邪見,我乃正見;我之言相應,汝之言不相應;
汝言不順,當先說者汝後說,當後說者汝先說;
汝主張已被駁倒,汝之語已被挑戰,汝已被辯敗。
來!試解此圍困之語,苟能者,出此窘境。」
然瞿曇沙門捨離一切如是諍論辯競。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu cóngshì zhū biànlùn zhēngjìng, yán:
“Rǔ bù zhī cǐ fǎ cǐ lǜ, wǒ nǎi zhī cǐ fǎ cǐ lǜ…
Rǔ duò xiéjiàn, wǒ nǎi zhèngjiàn; wǒ zhī yán xiāngyìng, rǔ zhī yán bù xiāngyìng…
Lái! Shì jiě cǐ wéikùn zhī yǔ, gǒu néng zhě, chū cǐ jiǒngjìng.”
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè rúshì zhènglùn biànjìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do tòng sự chư biện luận tranh cạnh, ngôn:
“Nhữ bất tri thử pháp thử luật, ngã nãi tri thử pháp thử luật…
Nhữ đọa tà kiến, ngã nãi chánh kiến; ngã chi ngôn tương ưng, nhữ chi ngôn bất tương ưng…
Lai! Thí giải thử vi khốn chi ngữ, cẩu năng giả, xuất thử củng cảnh.”
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết như thị tránh luận biện cạnh. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins engage in disputes and wrangling … the ascetic Gotama refrains from all such contentious debates. — Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Không làm người đưa tin, môi giới – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn sống cho đưa các tin tức, hoặc tự đứng làm môi giới cho vua, đại thần, Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, gia chủ, thanh niên, nói rằng:
“Hãy đi đến chỗ ấy; hãy đi lại chỗ kia; mang cái này lại; đem cái này đến chỗ kia”.
Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ không cho đưa các tin tức và không tự đứng làm môi giới.—Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶為人傳遞消息,或自為媒介,替諸王、王大臣、剎帝利、婆羅門、居士、青年等傳語曰:
「往彼處!到此處!將此物送去!把彼物帶來!」
然瞿曇沙門捨離傳遞消息及自作媒介。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu wéirén chuándì xiāoxī, huò zì wéi méijiè, tì zhū wáng, wáng dàchén, Chàdílì, Póluómén, jūshì, qīngnián děng chuán yǔ yuē:
“Wǎng bǐ chù! Dào cǐ chù! Jiāng cǐ wù sòng qù! Bǎ bǐ wù dài lái!”
Rán Qútán shāmén shělí chuándì xiāoxī jí zì zuò méijiè. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do vi nhân truyền đệ tiêu tức, hoặc tự vi môi giới, thế chư vương, vương đại thần, Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, cư sĩ, thanh niên đẳng truyền ngữ viết:
“Vãng bỉ xứ! Đáo thử xứ! Tương thử vật tống khứ! Bả bỉ vật đái lai!”
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly truyền đệ tiêu tức cập tự tác môi giới. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins act as messengers and go-betweens … the ascetic Gotama refrains from carrying messages or serving as a broker. — Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Biện luận – tranh luận đối đáp
Tranh chấp – đấu khẩu
Tà kiến – quan điểm sai lạc
Chánh kiến – quan điểm chân chánh
Giải vây lời nói – đáp trả, gỡ kẹt lập luận
Môi giới – làm trung gian
Tiêu tức – tin nhắn, thông điệp
Truyền đệ – truyền đạt
Sát-đế-lỵ – Ksatriya (giai cấp võ sĩ)
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Người phàm khen Đức Phật vì Ngài không tranh luận, không đấu lý, không khoe khoang kiến thức như nhiều Sa-môn và Bà-la-môn thời bấy giờ.
Worldly people praise the Buddha because He does not engage in argument, verbal duels, or displays of intellectual pride.
Họ cũng khen Ngài vì Ngài không làm các việc hạ cấp như truyền tin, đưa thông điệp, hoặc làm môi giới cho vua chúa hay cư sĩ.
They also praise Him for avoiding lowly tasks such as carrying messages or acting as a broker for kings or householders.
Nhưng Đức Phật xem tất cả những điều này vẫn chỉ là “giới bên ngoài”, không phải đạo giải thoát.
Yet the Buddha considers all these still “outer precepts,” not the path to liberation.
(Không lừa đảo, không siểm nịnh – Trung Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống lừa đảo, nói lời siểm nịnh, gợi ý, dèm pha, lấy lợi cầu lợi.
Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ không lừa đảo và siểm nịnh như trên.
Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門,雖受信施飲食,猶行欺詐、諂媚、提示暗喻、離間毀譽,以利求利。
然瞿曇沙門捨離一切欺詐與諂媚之行。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén, suī shòu xìnshī yǐnshí, yóu xíng qīzhà, chǎnmèi, tíshì ànyù, líjiàn huǐyù, yǐ lì qiú lì.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè qīzhà yǔ chǎnmèi zhī xíng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn, tuy thọ tín thí ẩm thực, do hành khi trá, xiểm mị, đề thị ám dụ, ly gián hủy dự, dĩ lợi cầu lợi.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết khi trá dữ xiểm mị chi hành. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins, though supported by the faithful, still practice deceit, flattery, hinting, backbiting, and seeking gain through gain — the ascetic Gotama abstains from all such deceitful and flattering conduct.
Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Lừa đảo – 欺詐 (qīzhà) – khi trá
Siểm nịnh – 諂媚 (chǎnmèi) – tâng bốc để được lợi
Gợi ý / ám dụ – 提示暗喻 (tíshì ànyù) – nói bóng nói gió
Dèm pha – 離間毀譽 (líjiàn huǐyù) – chia rẽ, nói xấu
Lấy lợi cầu lợi – 以利求利 – dùng lợi nhỏ để kiếm lợi lớn
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Nhiều Sa-môn, Bà-la-môn thời đó vẫn dùng lời đường mật, ám chỉ, tâng bốc và lừa đảo để tìm lợi dưỡng, dù họ đang sống nhờ tín thí của cư sĩ.
Many ascetics and Brahmins of that era used flattery, hinting, manipulation, and deceit to gain material benefits, even while living on the offerings of lay supporters.
Đức Phật hoàn toàn từ bỏ mọi hình thức lợi dụng và lừa gạt — Ngài chân thật, thẳng thắn, không cầu lợi qua lời nói hay hành vi.
The Buddha completely refrained from all forms of deceit or flattery—He was truthful, straightforward, and never sought gain through trickery.
Người phàm chỉ thấy bề mặt của hạnh này, nên họ tán thán Như Lai vì Ngài không siểm nịnh và không lừa đảo như những tu sĩ khác.
Ordinary people could observe this externally, and thus they praised the Tathāgata for not engaging in flattery or deception like other ascetics.
(Phần: ĐẠI GIỚI)
⸻
1. (Tránh xa các tà hạnh bói toán, phù chú – Đại Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng, dùng miệng phun hột cải vào lửa, tế vỏ lúa, tế tấm, tế gạo, tế thục tô, tế dầu, tế máu, khoa xem chi tiết, khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu ma quỷ, khoa dùng bùa chú trong nhà đất, khoa rắn, khoa thuốc độc, khoa bọ cạp, khoa chim, khoa chim quạ, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng nói của chim.
Còn Sa-môn Gotama thì tránh xa những tà hạnh kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以諸邪行自活:
如觀手足相、占相、召相、夢相、身相、鼠咬痕相、火祭、匙祭、以口噴芥子入火、糠祭、糝祭、米祭、酥祭、油祭、血祭;
諸細相學、地理相學、夢相學、祈神降福、祈鬼祟、土屋咒術、蛇術、毒術、蠍術、鳥術、烏鴉術、命相術、避箭術、鳥語術。
然瞿曇沙門遠離一切如是邪行。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ zhū xiéháng zìhuó:
rú guān shǒuzú xiàng, zhānxiàng, zhàoxiàng, mèngxiàng, shēnxiàng, shǔ yǎohén xiàng, huǒjì, chíjì, yǐ kǒu pēn jièzǐ rù huǒ, kāngjì, sǎnjì, mǐjì, sūjì, yóujì, xuèjì;
zhū xìxiàng xué, dìlǐ xiàng xué, mèngxiàng xué, qíshén jiàngfú, qí guǐsuì, tǔ wū zhòushù, shéshù, dúshù, xiēshù, niǎoshù, wūyā shù, mìngxiàng shù, bì jiàn shù, niǎoyǔ shù.
Rán Qútán shāmén yuǎnlí yīqiè rúshì xiéháng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ chư tà hạnh tự hoạt:
như quan thủ túc tướng, chiêm tướng, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, thử liệu ngân tướng, hỏa tế, thìa tế, dĩ khẩu phún giới tử nhập hỏa, khang tế, tán tế, mễ tế, tô tế, du tế, huyết tế;
chư tế tướng học, địa lý tướng học, mộng tướng học, kỳ thần giáng phúc, kỳ quỷ túy, thổ ốc chú thuật, xà thuật, độc thuật, giải thuật, điểu thuật, ô nha thuật, mạng tướng thuật, tí tiễn thuật, điểu ngữ thuật.
Nhi Cù-đàm Sa-môn viễn ly nhất thiết như thị tà hạnh. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins sustain themselves with wrong practices such as palmistry, omens, dreams, sacrifices, spells, snake lore, poison lore, bird lore, fortune-telling… the ascetic Gotama refrains from all such wrong ways of livelihood.
Thus, bhikkhus, the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Tránh xa các nghề xem tướng – Đại Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn nuôi sống mình bằng những tà mạng như xem tướng các hòn ngọc, tướng que gậy, tướng áo quần, tướng gươm, tướng mũi tên, tướng cây cung, tướng võ khí, tướng đàn bà, đàn ông, thiếu niên, thiếu nữ, tướng nô tỳ nam nữ, tướng voi, ngựa, trâu, bò đực, bò cái, dê, cừu, gia cầm, chim cun cút, tắc kè, vật tai dài, tướng ma, tướng thú vật.
Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ những tà mạng kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以諸相術自活:
如寶相、杖相、衣相、刀劍相、箭相、弓相、武器相、婦人相、男子相、少年相、少女相、男僕相、女僕相、象相、馬相、牛相、牡牛相、牝牛相、羊相、羝相、家禽相、鵪鶉相、蜥蜴相、長耳物相、鬼相、獸相。
然瞿曇沙門捨離一切如是邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ zhū xiàngshù zìhuó:
rú bǎoxiàng, zhàngxiàng, yīxiàng, dāojiàn xiàng, jiànxiàng, gōngxiàng, wǔqì xiàng, fùrén xiàng, nánzǐ xiàng, shàonián xiàng, shàonǚ xiàng, nánpú xiàng, nǚpú xiàng, xiàngxiàng, mǎxiàng, niúxiàng, mǔniú xiàng, pìnniú xiàng, yángxiàng, dìxiàng, jiāqín xiàng, ānchún xiàng, xīyì xiàng, cháng’ěr wù xiàng, guǐxiàng, shòuxiàng.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè rúshì xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ chư tướng thuật tự hoạt:
như bảo tướng, trượng tướng, y tướng, đao kiếm tướng, tiễn tướng, cung tướng, vũ khí tướng, phụ nhân tướng, nam tử tướng, thiếu niên tướng, thiếu nữ tướng, nam bộc tướng, nữ bộc tướng, tượng tướng, mã tướng, ngưu tướng, mẫu ngưu tướng, tẫn ngưu tướng, dương tướng, đề tướng, gia cầm tướng, an thuần tướng, tất giải tướng, trường nhĩ vật tướng, quỷ tướng, thú tướng.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết như thị tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins make their livelihood by interpreting the signs of gems, sticks, clothes, weapons, women, men, animals, birds, ghosts…
the ascetic Gotama abstains from all such wrong livelihoods.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
3. (Không tiên tri chiến tranh, thắng bại – Đại Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng như đoán trước: vua sẽ tiến quân, vua sẽ lui quân; vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thối; vua ngoại bang sẽ tấn công, vua bản xứ sẽ rút lui; vua bản xứ sẽ thắng trận, vua ngoại bang sẽ bại trận; hoặc vua ngoại bang thắng, vua bản xứ bại…
Còn Sa-môn Gotama thì từ bỏ những tà mạng kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以軍事占卜自活:
如王軍將進、將退;本國王將攻、外國王將撤;外國王將攻、本國王將撤;本國勝、外國敗;外國勝、本國敗。
如此言戰勝敗之兆。
然瞿曇沙門捨離一切如是軍占邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ jūnshì zhānbǔ zìhuó:
rú wáng jūn jiāng jìn, jiāng tuì; běnguó wáng jiāng gōng, wàiguó wáng jiāng chè; wàiguó wáng jiāng gōng, běnguó wáng jiāng chè; běnguó shèng, wàiguó bài; wàiguó shèng, běnguó bài.
Rú cǐ yán zhàn shèng bài zhī zhào.
Rán Qútán shāmén shělí yīqiè rúshì jūn zhān xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ quân sự chiêm bốc tự hoạt:
như vương quân tương tiến, tương thoái; bản quốc vương tương công, ngoại quốc vương tương triệt; ngoại quốc vương tương công, bản quốc vương tương triệt; bản quốc thắng, ngoại quốc bại; ngoại quốc thắng, bản quốc bại.
Như thử ngôn chiến thắng bại chi triệu.
Nhi Cù-đàm Sa-môn xả ly nhất thiết như thị quân chiêm tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins foretell military advances and retreats, victories and defeats … the ascetic Gotama abandons all such wrong livelihoods.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Xiển thuật – các loại bói toán
Tướng thuật – xem tướng
Mộng tướng – giải mộng
Hỏa tế – tế lửa
Bùa chú – chú thuật
Điểu thuật – thuật xem chim
Mạng tướng – đoán số mạng
Tà mạng – nghề nuôi sống sai lạc
Quỷ tướng – xem dấu hiệu ma quỷ
Quân chiêm – đoán binh cơ
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đại Giới mô tả những tà hạnh và tà mạng lớn — những nghề mê tín, phù chú, chiêm tướng, đoán số, đoán điềm, xem quỷ thần… vốn rất thịnh hành thời cổ.
The Great Precepts describe major wrong practices and livelihoods—superstitions, divinations, omens, ghost lore, and a wide range of occult crafts common in ancient India.
Người phàm thấy Đức Phật không làm những nghề này nên khen Ngài, nhưng họ không hiểu rằng Đức Phật tránh xa không phải vì hình thức, mà vì trí tuệ giác ngộ.
People praised the Buddha for avoiding these crafts, though they did not understand that He refrained out of wisdom, not mere discipline.
Đức Phật chuẩn bị bước sang phần chính yếu của Kinh Phạm Võng: giải thích sâu về 62 kiến chấp của thế gian.
The Buddha is now transitioning toward the heart of the Brahmajāla Sutta: the analysis of the sixty-two speculative views of the world.
1. (Không làm tà mạng chiêm tinh – nguyệt thực, nhật thực, sao rơi)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… tự nuôi sống bằng cách đoán trước nguyệt thực, nhật thực, tinh thực… các điềm trời như sao băng, động đất, sấm trời, lửa cháy, mặt trời – mặt trăng đi đúng hay sai đạo… và các kết quả của những hiện tượng ấy.
Còn Sa-môn Gotama thì tránh xa không tự nuôi sống bằng các tà mạng kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以天象占卜自活:
如預言月蝕、日蝕、星蝕;日月行正道或邪道;諸星行正道或邪道;
預言流星、火災四方、地動、雷震;
預言日月星辰之升、降、暗、明;
並斷言其吉凶禍福之果報。
然瞿曇沙門遠離如是天文占卜邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ tiānxiàng zhānbǔ zìhuó:
rú yùyán yuèshí, rìshí, xīngshí; rìyuè xíng zhèngdào huò xiédào; zhū xīng xíng zhèngdào huò xiédào;
yùyán liúxīng, huǒzāi sìfāng, dìdòng, léizhèn;
yùyán rìyuè xīngchén zhī shēng, jiàng, àn, míng;
bìng duànyán qí jíxiōng huòfú zhī guǒbào.
Rán Qútán shāmén yuǎnlí rúshì tiānwén zhānbǔ xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ thiên tượng chiêm bốc tự hoạt:
như dự ngôn nguyệt thực, nhật thực, tinh thực; nhật nguyệt hành chánh đạo hoặc tà đạo; chư tinh hành chánh đạo hoặc tà đạo;
dự ngôn lưu tinh, hỏa tai tứ phương, địa động, lôi chấn;
dự ngôn nhật nguyệt tinh thần chi thăng, giáng, ám, minh;
tịnh đoạn ngôn kỳ cát hung họa phúc chi quả báo.
Nhi Cù-đàm Sa-môn viễn ly như thị thiên văn chiêm bốc tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins live by predicting eclipses, star omens, meteors, earthquakes, thunder, and claiming to know their outcomes… the ascetic Gotama avoids all such astrological wrong livelihoods.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Không làm tà mạng thời tiết – mưa gió, mùa màng, họa phúc)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… nuôi sống bằng cách đoán trước nhiều mưa, đại hạn, được mùa, mất mùa, an ổn hay hiểm họa, có bệnh hay không bệnh… hoặc làm những nghề như đếm trên ngón tay, tính toán, cộng số lớn, làm thư, làm việc đời.
Còn Sa-môn Gotama tránh xa các tà hạnh kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以氣象占卜與俗務自活:
如預言多雨、大旱、豐收、荒敗、安寧、災難、有病、無病;
或以指算、會計、大數計算、書寫、俗務謀生。
然瞿曇沙門遠離如是氣象占卜與俗務邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ qìxiàng zhānbǔ yǔ súwù zìhuó:
rú yùyán duōyǔ, dàhàn, fēngshōu, huāngbài, ānníng, zāinàn, yǒubìng, wúbìng;
huò yǐ zhǐsuàn, kuàijì, dàshù jìsuàn, shūxiě, súwù móushēng.
Rán Qútán shāmén yuǎnlí rúshì qìxiàng zhānbǔ yǔ súwù xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ khí tượng chiêm bốc dữ tục vụ tự hoạt:
như dự ngôn đa vũ, đại hạn, phong thu, hoang bại, an ninh, tai nạn, hữu bệnh, vô bệnh;
hoặc dĩ chỉ toán, kế ký, đại số kế toán, thư tả, tục vụ mưu sinh.
Nhi Cù-đàm Sa-môn viễn ly như thị khí tượng chiêm bốc dữ tục vụ tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins live by foretelling weather, crops, disasters, or by accounting and worldly occupations… the ascetic Gotama avoids such wrong livelihoods.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
3. (Không chọn ngày tốt, dùng bùa chú, cầu tài – Đại Giới)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… sống bằng các tà mạng như chọn ngày rước dâu, chọn giờ hòa giải, chọn giờ chia rẽ, chọn giờ đòi nợ, chọn giờ tiêu tiền, dùng bùa chú cho may mắn, cho xui rủi, phá thai, làm cóng lưỡi, khóa quai hàm, làm tay rũ xuống, làm tai điếc, hỏi gương, hỏi đồng cốt, hỏi thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun lửa, cầu Siri thần tài…
Còn Sa-môn Gotama tránh xa các tà mạng kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以擇日與咒術自活:
如擇娶嫁吉日、和解吉時、離別凶時、索債吉時、借貸吉時;
以咒術求福、求禍、墮胎、噤舌、閉顎、垂手、塞耳;
問鏡占、問童子占、問處女占、問天神占,知禍福;
worshipping 日神、地神;噴火;祈求財神室利。
然瞿曇沙門遠離如是擇日與咒術邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ zérì yǔ zhòushù zìhuó:
rú zé qǔjià jírì, héjiě jíshí, líbié xiōngshí, suǒzhài jíshí, jièdài jíshí;
yǐ zhòushù qiú fú, qiú huò, duòtāi, jìnshé, bì’è, chuíshǒu, sāi’ěr;
wèn jìng zhān, wèn tóngzǐ zhān, wèn chǔnǚ zhān, wèn tiānshén zhān, zhī huòfú;
jì rì shén, jì dì shén; pēnhuǒ; qí qiú Cáishén Shìlì.
Rán Qútán shāmén yuǎnlí rúshì zérì yǔ zhòushù xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ trạch nhật dữ chú thuật tự hoạt:
như trạch thú giá cát nhật, hòa giải cát thời, ly biệt hung thời, tố trái cát thời, tái phóng cát thời;
dĩ chú thuật cầu phúc, cầu họa, đọa thai, cấm thiệt, bế ngạc, suy thủ, tắc nhĩ;
vấn kính chiêm, vấn đồng tử chiêm, vấn xử nữ chiêm, vấn thiên thần chiêm, tri họa phúc;
kính nhật thần, kính địa thần; phún hỏa; kỳ cầu Shiri tài thần.
Nhi Cù-đàm Sa-môn viễn ly như thị trạch nhật dữ chú thuật tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins choose auspicious days, use spells for luck or misfortune, consult omens, worship sun and earth gods, breathe fire, or invoke fortune deities… the ascetic Gotama avoids all such wrong livelihoods.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Nguyệt thực – 月蝕
Nhật thực – 日蝕
Tinh thực – 星蝕
Dự ngôn – tiên báo
Tà mạng – nghề sai lạc
Bói thời tiết – khí tượng chiêm
Trạch nhật – chọn ngày
Chú thuật – bùa chú
Họa phúc – tai họa hay phước lành
Siri – thần tài trong Ấn Độ cổ
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Đại Giới phơi bày sự mê tín thịnh hành trong xã hội Ấn Độ cổ: bói thiên văn, bói mùa màng, chọn ngày, cầu tài, bùa chú, thần linh…
The Great Precepts reveal the widespread superstitions in ancient India: astrology, weather divination, auspicious days, spells, fortune gods…
Người phàm chỉ thấy mặt bên ngoài, và họ tán thán Như Lai vì Ngài từ bỏ và không dùng các nghề tà mạng ấy.
Worldly people praise the Buddha because He abstains from these wrong livelihoods.
Nhưng Đức Phật muốn chỉ ra rằng đây vẫn chỉ là lớp vỏ; phần cốt lõi của kinh nằm ở giáo lý sâu xa về 62 kiến chấp.
But the Buddha points out that these are still superficial matters; the core teaching lies in the deep analysis of the sixty-two speculative views.
1. (Không dùng tà mạng ảo thuật – Đại Giới cuối)
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn… vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng như: dùng ảo thuật để được yên ổn, để khỏi làm điều đã hứa, để được che chở trong nhà đất, để làm tăng dương, làm người liệt dương, tìm đất tốt làm nhà, cầu phước nhà mới, lễ rửa miệng, lễ hy sinh, làm cho mửa, làm xổ, bài tiết nhơ bẩn phía trên, bài tiết nhơ bẩn phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu mắt, chữa bệnh mắt, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh trẻ con, cho uống thuốc bằng rễ cây, phá công hiệu thuốc…
Còn Sa-môn Gotama tránh xa các tà mạng kể trên. — Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
有些沙門、婆羅門…猶以諸咒術與醫巫技自活:
如以咒術求安穩、逃避所許之事、求土屋庇護、增陽、損陽、擇地築宅、為新屋求福;
漱口禮、犧牲禮、催吐、催下、上瀉、下瀉、腦淨、耳油、點眼、鼻藥、眼藥、眼油、治眼病、行割治術、治小兒病、以根藥煎服、斷藥效力。
然瞿曇沙門遠離如是咒術醫巫邪命。——諸比丘,如是凡夫讚歎如來。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén… yóu yǐ zhū zhòushù yǔ yīwū jì zìhuó:
rú yǐ zhòushù qiú ānwěn, táobì suǒ xǔ zhī shì, qiú tǔwū bìhù, zēng yáng, sǔn yáng, zé dì zhùzhái, wèi xīnwū qiú fú;
shùkǒu lǐ, xīshēng lǐ, cuītǔ, cuīxià, shàngxiè, xiàxiè, nǎo jìng, ěryóu, diǎn yǎn, bíyào, yǎnyào, yǎnyóu, zhì yǎnbìng, xíng gēzhì shù, zhì xiǎo’ér bìng, yǐ gēnyào jiānfú, duàn yàoxiàolì.
Rán Qútán shāmén yuǎnlí rúshì zhòushù yīwū xiémìng. — Zhū bǐqiū, rúshì fánfū zàntàn Rúlái.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn… do dĩ chư chú thuật dữ y vu kỹ tự hoạt:
như dĩ chú thuật cầu an ổn, đào tị sở hứa chi sự, cầu thổ ốc bế hộ, tăng dương, tổn dương, trạch địa trúc trạch, vị tân ốc cầu phúc;
súc khẩu lễ, hy sinh lễ, thôi thổ, thôi hạ, thượng tả, hạ tả, não tịnh, nhĩ du, điểm nhãn, tị dược, nhãn dược, nhãn du, trị nhãn bệnh, hành cát trị thuật, trị tiểu nhi bệnh, dĩ căn dược tiên phục, đoạn dược hiệu lực.
Nhi Cù-đàm Sa-môn viễn ly như thị chú thuật y vu tà mạng. — Chư Tỷ-kheo, như thử phàm phu tán thán Như Lai.
“While some ascetics and Brahmins engage in spells, witchcraft, quack remedies, rituals, and dubious medical practices… the ascetic Gotama avoids all such wrong ways of livelihood.
Thus the worldly praise the Tathāgata.”
⸻
2. (Đức Phật kết luận về TIỂU – TRUNG – ĐẠI GIỚI)
Này các Tỷ-kheo, đấy là những vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu dùng để tán thán Như Lai.
諸比丘,如是諸事,皆為細碎小法,唯屬戒律,凡夫由是而讚如來。
Zhū bǐqiū, rúshì zhū shì, jiē wéi xìsuì xiǎofǎ, wéi shǔ jièlǜ, fánfū yóu shì ér zàn Rúlái.
Chư Tỷ-kheo, như thử chư sự, giai vi tế toái tiểu pháp, duy thuộc giới luật, phàm phu do thử nhi tán Như Lai.
“Bhikkhus, these matters are insignificant, minor, belonging only to the discipline. Ordinary people praise the Tathāgata on account of these.”
⸻
3. (Những pháp sâu kín – khó thấy – tịch tịnh)
Này các Tỷ-kheo, lại có những pháp khác, sâu kín, khó thấu, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm luận lý suông, tế nhị, chỉ người trí mới nhận hiểu.
Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết. Và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
諸比丘,復有餘法,甚深、難見、難證、寂靜、妙善,非憑戲論所能知,微細,唯智者所能領會。
如來自證、自覺、自說。
如實正讚如來者,當讚此等諸法。
Zhū bǐqiū, fù yǒu yú fǎ, shènshēn, nánjiàn, nánzhèng, jìjìng, miàoshàn, fēi píng xìlùn suǒ néng zhī, wēixì, wéi zhìzhě suǒ néng lǐnghuì.
Rúlái zì zhèng, zì jué, zì shuō.
Rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, dāng zàn cǐ děng zhū fǎ.
Chư Tỷ-kheo, phục hữu dư pháp, thậm thâm, nan kiến, nan chứng, tịch tịnh, diệu thiện, phi bằng hí luận sở năng tri, vi tế, duy trí giả sở năng lĩnh hội.
Như Lai tự chứng, tự giác, tự thuyết.
Như thật chánh tán Như Lai giả, đương tán thử đẳng chư pháp.
“Bhikkhus, there are other dhammas—deep, hard to see, subtle, peaceful, beyond mere logic, accessible only to the wise.
The Tathāgata has directly realized these, awakened to these, and taught these.
Those who praise the Tathāgata rightly should praise these dhammas.”
⸻
4. (Câu hỏi mở ra phần 62 kiến chấp)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, chỉ người trí mới hiểu…?
諸比丘,何者為甚深、難見、難證、寂靜、妙善、非戲論所知、唯智者能解之法?
Zhū bǐqiū, hézhě wéi shènshēn, nánjiàn, nánzhèng, jìjìng, miàoshàn, fēi xìlùn suǒ zhī, wéi zhìzhě néng jiě zhī fǎ?
Chư Tỷ-kheo, hà giả vi thậm thâm, nan kiến, nan chứng, tịch tịnh, diệu thiện, phi hí luận sở tri, duy trí giả năng giải chi pháp?
“Bhikkhus, what are these deep, subtle, peaceful dhammas that only the wise can understand?”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Tà mạng – wrong livelihood
Ảo thuật – 咒術 (zhòushù)
Y vu – 醫巫 (sham medicine / witch-healing)
Thượng tả – ói mửa
Hạ tả – xổ
Não tịnh – thanh lọc đầu
Tế toái – nhỏ nhặt
Thậm thâm – sâu xa
Hí luận – tranh luận suông
Tự chứng – trực giác ngộ
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
Phần này là điểm chuyển xoay của toàn bộ Kinh Phạm Võng: từ các giới bên ngoài → vào phần giáo pháp sâu nhất.
This section marks the turning point of the Brahmajāla Sutta: from external rules → to the profound Dhamma.
Đức Phật khẳng định rằng người phàm chỉ thấy giới luật và lối sống; họ không thấy trí tuệ, không thấy giải thoát.
The Buddha affirms that ordinary people see only discipline and lifestyle; they do not see wisdom or liberation.
1. (Mở đầu: Có Sa-môn – Bà-la-môn chấp vào quá khứ tối sơ)
Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ, y cứ vào quá khứ tối sơ, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với mười tám luận chấp.
有諸比丘,有些沙門、婆羅門論說最初之過去,執著最初之過去,依最初之過去,提出種種異見,成十八種論說。
Yǒu zhū bǐqiū, yǒuxiē shāmén, Póluómén lùnshuō zuìchū zhī guòqù, zhízhuó zuìchū zhī guòqù, yī zuìchū zhī guòqù, tíchū zhǒngzhǒng yìjiàn, chéng shíbā zhǒng lùnshuō.
Hữu chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết tối sơ chi quá khứ, chấp trước tối sơ chi quá khứ, y tối sơ chi quá khứ, đề xuất chủng chủng dị kiến, thành thập bát chủng luận thuyết.
“Bhikkhus, there are ascetics and Brahmins who speculate about the beginning of the past… producing eighteen kinds of views about it.”
⸻
2. (Bốn luận chấp đầu tiên: Thường trú luận – Eternalism)
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: ‘Bản ngã và thế giới là thường còn’, với bốn luận chấp.
有些沙門、婆羅門主張常住論,言「自我與世間是常住」,有四種論說。
Yǒuxiē shāmén, Póluómén zhǔzhāng chángzhù lùn, yán “zìwǒ yǔ shìjiān shì chángzhù”, yǒu sì zhǒng lùnshuō.
Hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương thường trụ luận, ngôn: “ngã dữ thế gian thị thường trụ”, hữu tứ chủng luận thuyết.
“Some ascetics and Brahmins hold an Eternalist view: ‘Self and world are eternal.’ There are four such views.”
⸻
3. (Căn cứ của luận chấp: Người nhập định nhớ nhiều đời quá khứ)
Này các Tỷ-kheo, nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, cần mẫn, không phóng dật, chánh ức niệm, nên tâm nhập định; khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ…
諸比丘,由熱心、精進、勤奮、不放逸、正念,心得定;心定時,彼能憶起多生之宿命……
Zhū bǐqiū, yóu rèxīn, jīngjìn, qínfèn, bù fàngyì, zhèngniàn, xīn dé dìng; xīn dìng shí, bǐ néng yìqǐ duōshēng zhī sùmìng…
Chư Tỷ-kheo, do nhiệt tâm, tinh tấn, cần mẫn, bất phóng dật, chánh niệm, tâm đắc định; tâm định thời, bỉ năng ức khởi đa sanh chi túc mạng…
“Through zeal, energy, mindfulness, and concentration, his mind enters samādhi; then he recollects many past lives…”
⸻
4. (Mô tả sự nhớ lại quá khứ – nhiều đời, nhiều kiếp)
… như một đời, hai đời, ba đời… trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô số trăm ngàn đời… nhớ: ‘Ở nơi ấy tôi tên như thế, họ như thế, giai cấp như thế… chết ở đó sinh sang đây…’
……如一生、二生、三生……百生、千生、十萬生、無數百千生……憶念:「彼處我名某某,姓某某,種姓如是……彼處死,生於此處……」
… rú yī shēng, èr shēng, sān shēng… bǎi shēng, qiān shēng, shíwàn shēng, wúshù bǎi qiān shēng… yìniàn: “bǐ chù wǒ míng mǒumǒu…”
…… như nhất sanh, nhị sanh, tam sanh… bách sanh, thiên sanh, thập vạn sanh, vô số bách thiên sanh… ức niệm: “bỉ xứ ngã danh mỗ mỗ…”
“One life, two lives… hundreds, thousands, hundreds of thousands… recalling names, clans, castes, foods, pleasures, pains, life spans, deaths, rebirths…”
⸻
5. (Đi đến kết luận sai lầm: Thường trú luận)
Người ấy nói rằng: ‘Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; những hữu tình kia luân chuyển nhưng vẫn thường trú.’
彼遂言:「自我與世間常住、不生,如山頂、如石柱;諸有情雖輪迴生死,然亦常住。」
Bǐ suì yán: “Zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù, bù shēng, rú shāndǐng, rú shízhù; zhū yǒuqíng suī lúnhuí shēngsǐ, rán yì chángzhù.”
Bỉ toại ngôn: “Ngã dữ thế gian thường trụ, bất sanh, như sơn đỉnh, như thạch trụ; chư hữu tình tuy luân hồi sanh tử, nhiên diệc thường trụ.”
“He concludes: ‘Self and world are eternal, unchanging like a mountain or stone pillar. Beings wander in saṃsāra, yet their essence remains eternal.’”
⸻
6. (Căn cứ lập luận sai: dựa vào thiền định của mình)
‘Tại sao vậy? Vì tôi nhớ được nhiều đời nhờ tinh tấn – còn các hữu tình khác luân hồi nhưng vẫn thường còn.’
「何以故?以我因熱心精進得憶宿命;彼諸有情雖輪迴,然其本性常住。」
“Héyǐ gù? Yǐ wǒ yīn rèxīn jīngjìn dé yì sùmìng; bǐ zhū yǒuqíng suī lúnhuí, rán qí běnxìng chángzhù.”
“Hà dĩ cố? Dĩ ngã nhân nhiệt tâm tinh tấn đắc ức túc mạng; bỉ chư hữu tình tuy luân hồi, nhiên kỳ bản tánh thường trụ.”
“Why? Because I recollect past lives through effort; therefore all beings must be eternal.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Tối sơ quá khứ – 初過去
Thường trú luận – 常住論 (Eternalism)
Bản ngã – 自我 / ngã
Nhập định – 入定
Túc mạng trí – 宿命智
Luân chuyển – 輪迴
Bất sanh – 不生 (không sinh, vĩnh hằng)
Trụ đá – 石柱
Đảnh núi – 山頂
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT – ANH SONG NGỮ
1. Đây là tà kiến thứ nhất trong 62 kiến chấp: “Thường trú luận” phát sinh từ Túc mạng trí chưa giải thoát.
This is the first of the 62 wrong views: Eternalism, arising from partial recollection of past lives without enlightenment.
2. Người ấy thấy nhiều đời sống—nhưng chấp rằng tất cả đều thường còn → rơi vào tà kiến.
He sees many past lives, but mistakes the continuity of memory for an eternal self → a wrong conclusion.
3. Đức Phật sẽ tiếp tục phân tích:
– vì sao họ thấy đúng mà kết luận sai,
– và vì sao mọi Eternalism đều dựa trên tri kiến không hoàn toàn giải thoát.
The Buddha explains why these people have partial facts but false conclusions.
4. Đây là phần khởi đầu của chuỗi 18 luận chấp về “quá khứ tối sơ”.
This begins the eighteen speculative views about the beginning of the past.
1. (Kết thúc luận chấp thứ nhất)
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ nhất… một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp rằng bản ngã và thế giới là thường còn.
諸比丘,此是第一立場……有些沙門、婆羅門依此而說常住論,執著自我與世間為常住。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-yī lìchǎng… yǒuxiē shāmén, Póluómén yī cǐ ér shuō chángzhù lùn, zhízhuó zìwǒ yǔ shìjiān wéi chángzhù.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ nhất lập trường… hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn y thử nhi thuyết thường trụ luận, chấp trước ngã dữ thế gian vi thường trụ.
“This, bhikkhus, is the first position from which some ascetics and Brahmins proclaim Eternalism.”
⸻
2. (Hỏi: Vậy trường hợp thứ hai là gì?)
Trường hợp thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận…?
第二種情況,沙門或婆羅門依何而立常住論?
Dì-èr zhǒng qíngkuàng, shāmén huò Póluómén yī hé ér lì chángzhù lùn?
Đệ nhị chủng tình huống, Sa-môn hoặc Bà-la-môn y hà nhi lập thường trụ luận?
“What is the second basis on which they proclaim Eternalism?”
⸻
3. (Mô tả trường hợp thứ hai: Nhớ vô số thành–hoại kiếp)
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn… nhờ nhất tâm, tinh tấn, cần mẫn, không phóng dật, chánh ức niệm, nên tâm nhập định; khi tâm nhập định vị ấy nhớ được nhiều đời quá khứ, như một thành kiếp–hoại kiếp, hai thành kiếp–hoại kiếp, ba thành kiếp–hoại kiếp, mười thành kiếp–hoại kiếp…
諸比丘,有沙門或婆羅門……由一心、精進、勤奮、不放逸、正念,心得定;既得定,能憶起多生宿命,如一成劫壞劫、二成劫壞劫、三成劫壞劫、乃至十成劫壞劫……
Zhū bǐqiū, yǒu shāmén huò Póluómén… yóu yīxīn, jīngjìn, qínfèn, bù fàngyì, zhèngniàn, xīn dé dìng; jì dé dìng, néng yìqǐ duōshēng sùmìng, rú yī chéngjié–huàijié, èr chéngjié–huàijié…
Chư Tỷ-kheo, hữu Sa-môn hoặc Bà-la-môn… do nhất tâm, tinh tấn, cần mẫn, bất phóng dật, chánh niệm, tâm đắc định; ký đắc định, năng ức khởi đa sanh túc mạng, như nhất thành kiếp–hoại kiếp, nhị thành kiếp–hoại kiếp, tam thành kiếp–hoại kiếp…
“A certain ascetic or Brahmin, entering deep concentration, recalls past lives spanning one world-cycle of evolution and dissolution, two world-cycles… even ten world-cycles.”
⸻
4. (Nhớ rõ nhiều kiếp sinh–diệt)
… nhớ rằng: ‘Khi được sanh ở chỗ ấy, tôi đã sống tên như thế này… tại nơi kia chết đi rồi sinh đến nơi này… những hữu tình khác cũng luân chuyển như thế nhưng vẫn thường trú.’
……憶念:「彼處我名某某……於彼處死,生於此處……諸有情亦如是輪迴,然而常住。」
… yìniàn: “Bǐ chù wǒ míng mǒumǒu… bǐ chù sǐ, shēng yú cǐ chù… zhū yǒuqíng yì rúshì lúnhuí, rán’ér chángzhù.”
……ức niệm: “Bỉ xứ ngã danh mỗ mỗ… bỉ xứ tử, sanh ư thử xứ… chư hữu tình diệc như thị luân hồi, nhiên nhi thường trụ.”
“He recalls countless cycles of birth and death and concludes that beings cycle endlessly—yet must be eternal.”
⸻
5. (Kết luận sai lầm của luận chấp số 2)
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ hai… một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận và chấp rằng ngã và thế giới là thường còn.
諸比丘,此是第二立場……有些沙門、婆羅門依之而說常住論,言自我與世間常住。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-èr lìchǎng… yǒuxiē shāmén, Póluómén yī zhī ér shuō chángzhù lùn, yán zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ nhị lập trường… hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn y chi nhi thuyết thường trụ luận, ngôn ngã dữ thế gian thường trụ.
“This, bhikkhus, is the second position from which Eternalism is proclaimed.”
⸻
6. (Hỏi sang luận chấp thứ ba)
Trường hợp thứ ba, những Sa-môn hay Bà-la-môn y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và cho rằng bản ngã và thế giới là thường còn?
第三種情況,沙門或婆羅門依何而立常住論?
Dì-sān zhǒng qíngkuàng, shāmén huò Póluómén yī hé ér lì chángzhù lùn?
Đệ tam chủng tình huống, Sa-môn hoặc Bà-la-môn y hà nhi lập thường trụ luận?
“And what is the third basis for the Eternalist view?”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Thành kiếp – world-formation period
Hoại kiếp – world-dissolution period
Nhất tâm – one-pointedness
Túc mạng trí – knowledge of past lives
Luân chuyển – revolving in saṃsāra
Thường trú – eternal, unchanging
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
• Luận chấp số 2 giống luận số 1, nhưng phạm vi “nhớ quá khứ” lớn hơn:
không chỉ vài đời → mà trải qua nhiều thành–hoại kiếp của vũ trụ.
The second eternalist view expands the recollection from a few past lives to entire cycles of cosmic evolution and dissolution.
• Đây là tri kiến đúng nhưng kết luận sai:
thấy vòng lặp → chấp là vĩnh hằng.
The perception is correct (many world cycles), but the conclusion (eternal self) is wrong.
• Đức Phật phơi bày cách tu tập không giải thoát dễ dẫn đến tà kiến—even khi có thần thông.
The Buddha shows that even deep concentration without wisdom can lead to wrong views.
(Luận chấp Thường trú luận – Trường hợp thứ ba)
⸻
1. (Nhập định – nhớ quá khứ sâu hơn nữa: 10 đến 50 thành–hoại kiếp)
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, tinh tấn, cần mẫn, không phóng dật, chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời quá khứ, như mười thành kiếp hoại kiếp, hai mươi thành kiếp hoại kiếp, ba mươi thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi thành kiếp hoại kiếp, năm mươi thành kiếp hoại kiếp…
諸比丘,此世有沙門、婆羅門,由一心、精進、勤奮、不放逸、正念,心得定;心定時,能憶起多生宿命,如十成劫壞劫、二十成劫壞劫、三十成劫壞劫、四十成劫壞劫、五十成劫壞劫……
Zhū bǐqiū, cǐ shì yǒu shāmén, Póluómén, yóu yīxīn, jīngjìn, qínfèn, bù fàngyì, zhèngniàn, xīn dé dìng; xīn dìng shí, néng yìqǐ duōshēng sùmìng, rú shí chéngjié–huàijié, èrshí chéngjié–huàijié, sānshí…
Chư Tỷ-kheo, thử thế hữu Sa-môn, Bà-la-môn, do nhất tâm, tinh tấn, cần mẫn, bất phóng dật, chánh niệm, tâm đắc định; tâm định thời, năng ức khởi đa sanh túc mạng, như thập thành kiếp–hoại kiếp, nhị thập thành kiếp–hoại kiếp, tam thập…
“A certain ascetic, entering samādhi, recollects past lives across ten, twenty, thirty, forty, even fifty cosmic cycles of evolution and dissolution.”
⸻
2. (Nhớ rõ chi tiết từng đời – từng kiếp)
… nhớ rằng: ‘Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này… lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này… từ đó chết đi lại sinh chỗ kia…’
……憶念:「彼處我名某某……受樂受苦如是,壽命如是;於彼處死,復生於他處……」
… yìniàn: “Bǐ chù wǒ míng mǒumǒu… shòu lè shòu kǔ rúshì, shòumìng rúshì; yú bǐ chù sǐ, fù shēng yú tā chù…”
……ức niệm: “Bỉ xứ ngã danh mỗ mỗ… thọ lạc thọ khổ như thị, thọ mạng như thị; ư bỉ xứ tử, phục sanh ư tha xứ…”
“He recalls names, clans, classes, pleasures and pains, life spans, deaths and rebirths in great detail.”
⸻
3. (Kết luận sai lầm: bản ngã và thế giới thường trú)
Người ấy nói: ‘Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi như trụ đá; còn hữu tình kia luân hồi nhưng vẫn thường trú.’
彼遂言:「自我與世間常住、不生,如山頂、如石柱;諸有情雖輪迴生死,然亦常住。」
Bǐ suì yán: “Zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù, bù shēng, rú shāndǐng, rú shízhù; zhū yǒuqíng suī lúnhuí shēngsǐ, rán yì chángzhù.”
Bỉ toại ngôn: “Ngã dữ thế gian thường trụ, bất sanh, như sơn đỉnh, như thạch trụ; chư hữu tình tuy luân hồi sanh tử, nhiên diệc thường trụ.”
“He concludes: ‘Self and world are eternal, unchanging like a mountain peak or a stone pillar.’”
⸻
4. (Căn cứ lập luận sai: nhớ nhiều kiếp → tưởng lầm thường còn)
‘Tại sao vậy? Vì tôi nhờ nhiệt tâm… nhập định… nên nhớ được nhiều đời quá khứ như mười, hai mươi… bốn mươi thành–hoại kiếp.’
「何以故?以我由熱心……得定,故能憶起十、二十……乃至四十成劫壞劫之宿命。」
“Héyǐ gù? Yǐ wǒ yóu rèxīn… dé dìng, gù néng yìqǐ shí, èrshí… nàizhì sìshí chéngjié–huàijié zhī sùmìng.”
“Hà dĩ cố? Dĩ ngã do nhiệt tâm… đắc định, cố năng ức khởi thập, nhị thập… nãi chí tứ thập thành kiếp–hoại kiếp chi túc mạng.”
“Why? Because through zeal and concentration he recalls many cycles, thus mistakenly concluding eternal existence.”
⸻
5. (Kết luận: đây là luận chấp thứ ba)
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ ba… một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp rằng bản ngã và thế giới thường còn.
諸比丘,此是第三立場……有些沙門、婆羅門依之而說常住論。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-sān lìchǎng… yǒuxiē shāmén, Póluómén yī zhī ér shuō chángzhù lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ tam lập trường… hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn y chi nhi thuyết thường trụ luận.
“This, bhikkhus, is the third basis on which Eternalism is proclaimed.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Thành kiếp – kiếp thành
Hoại kiếp – kiếp hoại
Túc mạng – past lives
Đảnh núi – mountain peak
Thạch trụ – stone pillar
Thường trú – eternal, unchanging
Luân hồi – saṃsāra
Phóng dật – distraction, heedlessness
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
1. Đây là tầng sâu hơn của tà kiến Thường trú luận
Người hành giả nhớ hàng chục – hàng trăm triệu năm qua các chu kỳ thành – hoại của vũ trụ.
Nhưng ký ức rộng lớn không phải là trí tuệ giải thoát → nên kết luận sai.
The meditator recalls vast cosmic cycles, but memory without wisdom leads to false conclusions.
⸻
2. Thấy vòng lặp → tưởng là vĩnh cửu
Giống như nhìn bánh xe xoay nhanh và tưởng nó đứng yên.
Just as a spinning wheel appears motionless, cyclic rebirth appears eternal.
⸻
3. Đức Phật phân tích từng lớp để dẫn đến chân lý
Từ luận chấp 1 → 2 → 3, mức độ “thấy quá khứ” càng lớn, nhưng vẫn rơi vào vô minh.
The Buddha shows that deeper memory does not equal deeper truth.
(Luận chấp Thường trú luận – Trường hợp thứ tư và kết luận)
⸻
1. (Hỏi: Trường hợp thứ tư là gì?)
Trường hợp thứ tư, những Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp bản ngã và thế giới thường còn?
第四種情況,沙門、婆羅門依何而立常住論,執著自我與世間常住?
Dì-sì zhǒng qíngkuàng, shāmén, Póluómén yī hé ér lì chángzhù lùn, zhízhuó zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù?
Đệ tứ chủng tình huống, Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi lập thường trụ luận, chấp trước ngã dữ thế gian thường trụ?
⸻
2. (Nhà suy luận – nhà thẩm sát → chấp thường trú)
Này các Tỷ-kheo, ở đời có Sa-môn hay Bà-la-môn, là nhà suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ của suy luận, và sự tùy thuận theo thẩm sát, vị này tuyên bố:
“Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; còn hữu tình kia luân hồi sinh tử, tuy vậy vẫn thường còn.”
諸比丘,此世有沙門、婆羅門,為思辨者、審察者。
因思辨之分析,隨審察之推準,彼作如是宣說:
「自我與世間常住、不生,如山頂、如石柱;
諸有情雖輪迴生死,然亦常住。」
Zhū bǐqiū, cǐ shì yǒu shāmén, Póluómén, wéi sībiàn zhě, shěnchá zhě.
Yīn sībiàn zhī fēnxī, suí shěnchá zhī tuīzhǔn, bǐ zuò rúshì xuānshuō:
“Zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù, bù shēng, rú shāndǐng, rú shízhù; zhū yǒuqíng suī lúnhuí shēngsǐ, rán yì chángzhù.”
Chư Tỷ-kheo, thử thế hữu Sa-môn, Bà-la-môn, vi tư biện giả, thẩm sát giả.
Nhân tư biện chi phân tích, tùy thẩm sát chi suy chuẩn, bỉ tác như thị tuyên thuyết:
“Ngã dữ thế gian thường trụ, bất sanh, như sơn đỉnh, như thạch trụ;
chư hữu tình tuy luân hồi sinh tử, nhiên diệc thường trụ.”
“A certain ascetic or Brahmin, being a logician and investigator, through reasoning and analysis declares: ‘Self and world are eternal, unchanging like a mountain peak or a stone pillar.’”
⸻
3. (Kết luận: Đây là luận chấp Thường trú luận thứ tư)
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ tư… một số Sa-môn, Bà-la-môn chấp bản ngã và thế giới thường còn.
諸比丘,此是第四立場……有沙門、婆羅門依之而說常住論。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-sì lìchǎng… yǒu shāmén, Póluómén yī zhī ér shuō chángzhù lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ tứ lập trường… hữu Sa-môn, Bà-la-môn y chi nhi thuyết thường trụ luận.
⸻
4. (Tổng kết 4 luận chấp của Thường trú luận)
Những Sa-môn, Bà-la-môn này… nếu chủ trương “Bản ngã và thế giới là thường còn”, thì hoặc chấp đủ 4 luận chấp, hoặc chấp 1 trong 4; ngoài ra không có luận chấp nào khác.
若有沙門、婆羅門立「自我與世間常住」之說,
或執四論,或執其一,除此更無他說。
Ruò yǒu shāmén, Póluómén lì “zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù” zhī shuō,
huò zhí sì lùn, huò zhí qí yī, chúcǐ gèng wú tā shuō.
Nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn lập “ngã dữ thế gian thường trụ” chi thuyết,
hoặc chấp tứ luận, hoặc chấp kỳ nhất — trừ thử cánh vô tha thuyết.
⸻
5. (Đức Phật tuệ tri – nguyên nhân → hậu quả của tà kiến)
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy… chấp như vậy… sẽ dẫn đến những cõi thú như vậy, định mạng như vậy.”
Như Lai biết như vậy, biết hơn thế nữa, và Ngài không chấp trước sở tri ấy.
諸比丘,如來如是慧知:
「此等諸見,如是執著,如是攀緣,將導至如是趣、如是命。」
如來如是知,亦知過於此;
而於所知不取著。
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì huì zhī:
“Cǐ děng zhū jiàn, rúshì zhízhuó, rúshì pānyuán, jiāng dǎozhì rúshì qù, rúshì mìng.”
Rúlái rúshì zhī, yì zhī guò yú cǐ;
ér yú suǒ zhī bù qǔzhuó.
“The Tathāgata knows the origin, result, and domain of each of these views—and knowing them, He does not cling to them.”
⸻
6. (Đức Phật chứng tịch tịnh – thấy rõ tập khởi – đoạn diệt của thọ)
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm chứng được tịch tịnh. Ngài như thật biết sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của chúng. Nhờ vậy, Như Lai giải thoát hoàn toàn, không chấp thủ.
以不取著,內心得寂靜;
如實知諸受之集起、滅盡、味、患、離。
因此如來究竟解脫,不有取著。
Yǐ bù qǔzhuó, nèixīn dé jìjìng;
rúshí zhī zhū shòu zhī jíqǐ, mièjìn, wèi, huàn, lí.
Yīncǐ Rúlái jiùjìng jiětuō, bù yǒu qǔzhuó.
“By not clinging, His mind becomes peaceful. He knows the arising and ceasing of feelings, their taste, their danger, and their escape. Thus He is fully liberated.”
⸻
7. (Những pháp này mới là pháp sâu kín mà người trí tán thán)
Những pháp ấy… sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài luận lý suông… chỉ người trí mới phân biệt.
Như Lai đã thắng tri – giác ngộ – tuyên thuyết. Ai tán thán đúng nghĩa Như Lai thì nên tán thán những pháp ấy.
此等諸法,甚深難見,難證、寂靜、妙善,非戲論所及,唯智者能辨。
如來已勝知、覺悟、宣說。
正讚如來者,當讚此等諸法。
Cǐ děng zhū fǎ, shènshēn nánjiàn, nánzhèng, jìjìng, miàoshàn, fēi xìlùn suǒ jí, wéi zhìzhě néng biàn.
Rúlái yǐ shèng zhī, juéwù, xuānshuō.
Zhèng zàn Rúlái zhě, dāng zàn cǐ děng zhū fǎ.
“These dhammas—deep, subtle, peaceful, beyond logic—are the true qualities realized and taught by the Tathāgata. Whoever praises Him rightly should praise these.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Thẩm sát – 審察 (analysis)
Tư biện – 思辨 (speculative reasoning)
Thường trú – 常住
Đảnh núi – 山頂
Thạch trụ – 石柱
Cõi thú – 去處 (destiny, realm)
Vị ngọt – 味 (sweetness, attraction)
Nguy hiểm – 患 (danger)
Xuất ly – 離 (escape, letting go)
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
1. Luận chấp thứ tư không dựa vào thiền định, mà dựa vào lập luận – suy lý.
Đây là Eternalism của các triết gia Ấn Độ cổ → dùng lý luận để nói bản ngã thường hằng.
This fourth view is held by philosophers who use logic to conclude eternal existence.
⸻
2. Đức Phật không chỉ biết nguồn gốc 4 luận chấp — mà còn biết hậu quả nghiệp báo của chúng.
Ngài thấy toàn bộ dòng nhân duyên → nên không chấp vào bất kỳ kiến nào.
The Buddha sees origin, consequence, and entire causal chain → therefore He clings to none.
⸻
3. Pháp mà Như Lai thật sự dạy là pháp vượt ngoài ngôn ngữ – vượt ngoài lý luận.
Không phải là các kiến giải suông, mà là thấy sự sinh – diệt của thọ và buông xả hoàn toàn.
The true Dhamma is beyond logic: knowing the arising–ending of feelings and total release.
(Một phần thường, một phần vô thường – 4 luận chấp)
⸻
1. (Mở đầu: Một phần Thường – Một phần Vô thường)
Này các Tỷ-kheo, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường đối với một hạng hữu tình, và vô thường đối với một hạng hữu tình khác, với bốn luận chấp.
諸比丘,復有沙門、婆羅門立一分常住、一分無常之論,
執有情之一類常住,另一類無常,成四種論說。
Zhū bǐqiū, fù yǒu shāmén, Póluómén lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng zhī lùn,
zhí yǒuqíng zhī yī lèi chángzhù, lìng yī lèi wúcháng, chéng sì zhǒng lùnshuō.
Chư Tỷ-kheo, phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường chi luận,
chấp hữu tình nhất loại thường trụ, nhất loại vô thường, thành tứ chủng luận thuyết.
“There are ascetics and Brahmins who claim: some beings are eternal, others are impermanent—thus forming four speculative doctrines.”
⸻
2. (Giai đoạn vũ trụ hoại diệt → chúng sanh sanh về Quang Âm thiên Ābhassara)
Có một thời, sau thời gian rất lâu, thế giới này hoại. Khi thế giới hoại, phần lớn hữu tình sanh qua cõi Quang Âm thiên. Ở đó, họ do ý sanh, nuôi bằng hỷ, tự chiếu quang, bay trên hư không, sống quang vinh lâu dài.
有時經久遠之後,此世間壞滅。
世間壞時,多數有情生於光音天。
彼等意生、以喜為食、自放光明、於空中飛行、熾盛輝曜,住久一時。
Yǒu shí jīng jiǔyuǎn zhī hòu, cǐ shìjiān huàimiè.
Shìjiān huài shí, duōshù yǒuqíng shēng yú Guāngyīn Tiān.
Bǐ děng yì shēng, yǐ xǐ wéi shí, zì fàng guāngmíng, yú kōng zhōng fēixíng, chìshèng huīyào, zhù jiǔ yī shí.
Hữu thời, kinh cửu viễn chi hậu, thử thế gian hoại diệt.
Thế gian hoại thời, đa số hữu tình sanh ư Quang Âm thiên.
Bỉ đẳng ý sanh, dĩ hỷ vi thực, tự phóng quang minh, ư không trung phi hành, xích thịnh huy diệu, trụ cửu nhất thời.
“After a long period, when the world dissolves, most beings are reborn in the Ābhassara realm—mind-made, radiant, feeding on joy.”
⸻
3. (Giai đoạn thế giới thành → Phạm cung hiện ra nhưng trống không)
Sau thời gian rất lâu, thế giới chuyển thành. Trong khi thế giới thành, Phạm cung hiện ra nhưng trống không.
經久遠後,世間復成。
世間成時,梵宮出現,而尚空無一物。
Jīng jiǔyuǎn hòu, shìjiān fù chéng.
Shìjiān chéng shí, Fàn Gōng chūxiàn, ér shàng kōng wú yīwù.
Kinh cửu viễn hậu, thế gian phục thành.
Thế gian thành thời, Phạm cung xuất hiện, nhi thượng không vô nhất vật.
“After a long time, the world re-evolves; the Brahmā palace appears—empty.”
⸻
4. (Một hữu tình từ Quang Âm thiên sanh sang Phạm cung trống rỗng)
Khi ấy, một hữu tình — thọ mạng hoặc phước báo đã tận — mạng chung tại Quang Âm thiên, sanh qua Phạm cung trống ấy. Ở đó, vị ấy cũng ý sanh, nuôi bằng hỷ, tự chiếu quang, bay trên hư không, sống quang vinh lâu dài.
彼時,有一有情——或壽盡、或福盡——
於光音天命終,生於空梵宮。
彼在彼處,亦意生、以喜為食、自放光明、飛行虛空、光榮久住。
Bǐ shí, yǒu yī yǒuqíng — huò shòu jìn, huò fú jìn —
yú Guāngyīn Tiān mìngzhōng, shēng yú kōng Fàn Gōng.
Bǐ zài bǐ chù, yì yì shēng, yǐ xǐ wéi shí, zì fàng guāngmíng, fēixíng xūkōng, guāngróng jiǔ zhù.
Bỉ thời, hữu nhất hữu tình — hoặc thọ tận, hoặc phước tận —
Ư Quang Âm thiên mệnh chung, sanh ư không Phạm cung.
Bỉ tại bỉ xứ, diệc ý sanh, dĩ hỷ vi thực, tự phóng quang minh, phi hành hư không, quang vinh cửu trụ.
“One being, whose life-span or merit has ended, dies from Ābhassara and is reborn in that empty Brahmā world.”
⸻
5. (Vị ấy sống một mình lâu dài → khởi ý muốn có bạn)
Sau khi sống một mình lâu, vị ấy chán nản và mong: ‘Mong có hữu tình khác đến nơi này!’
彼獨住久已,生厭離心,願言:
「但願更有諸有情來此處!」
Bǐ dú zhù jiǔ yǐ, shēng yànlí xīn, yuànyán:
“Dàn yuàn gèng yǒu zhū yǒuqíng lái cǐ chù!”
Bỉ độc trụ cửu dĩ, sanh yểm ly tâm, nguyện ngôn:
“Đản nguyện cánh hữu chư hữu tình lai thử xứ!”
“Living alone for a long time, he becomes dissatisfied and wishes: ‘Would that other beings might come here!’”
⸻
6. (Lập tức các hữu tình khác từ Quang Âm thiên sanh đến陪伴)
Rồi các hữu tình khác — thọ mạng hoặc phước báo đã tận — mạng chung từ Quang Âm thiên, sanh qua Phạm cung để làm bạn. Họ cũng ý sanh, nuôi bằng hỷ, tự chiếu sáng, phi hành hư không, sống quang vinh lâu dài.
於是其他有情——或壽盡、或福盡——
從光音天命終,生於彼梵宮以為伴侶。
彼等亦意生、以喜為食、自放光明、於空中飛行、久住光榮。
Yúshì qítā yǒuqíng — huò shòu jìn, huò fú jìn —
cóng Guāngyīn Tiān mìngzhōng, shēng yú bǐ Fàn Gōng yǐ wéi bànlǚ.
Bǐ děng yì yì shēng, yǐ xǐ wéi shí, zì fàng guāngmíng, yú kōngzhōng fēixíng, jiǔ zhù guāngróng.
Ư thị kỳ tha hữu tình — hoặc thọ tận, hoặc phước tận —
Tùng Quang Âm thiên mệnh chung, sanh ư bỉ Phạm cung dĩ vi bạn lữ.
Bỉ đẳng diệc ý sanh, dĩ hỷ vi thực, tự phóng quang minh, ư không trung phi hành, cửu trụ quang vinh.
“Other beings, whose merit/lifespan is exhausted, die in Ābhassara and appear in that Brahmā realm to join him.”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Thành kiếp – 成劫 (period of world formation)
Hoại kiếp – 壞劫 (period of world dissolution)
Quang Âm thiên (Ābhassara) – 光音天
Phạm cung (Brahmā world) – 梵宮
Ý sanh – 意生 (mind-made)
Nuôi bằng hỷ – 以喜為食
Tự chiếu hào quang – 自放光明
Phi hành – 飛行
Cõi hữu tình – 有情界
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
1. Đây là một trong những đoạn kỳ vĩ nhất của Kinh Phạm Võng – mô tả sự tái lập vũ trụ.
This passage describes cosmological cycles—dissolution and re-formation of worlds.
⸻
2. “Một phần Thường – một phần Vô thường”
Các triết gia cổ đại thấy:
• chư Thiên ở Phạm cung: tồn tại lâu → tưởng là thường
• chúng sanh thấp hơn: sinh diệt → tưởng là vô thường
→ Từ đó dẫn đến tà kiến pha trộn.
They mistakenly infer mixed eternalism based on hierarchy of realms.
⸻
3. Cốt lõi sai lầm:
Người đầu tiên sinh ở Phạm cung nghĩ rằng mình là “đấng sáng tạo”, vì khi vị ấy ước muốn → chúng sanh liền xuất hiện.
→ Từ đây phát sinh tà kiến: “Có 1 số hữu tình thường còn — số khác vô thường.”
The first Brahmā mistakenly thinks he created later beings, forming the basis of partial eternalism.
(Ảo tưởng Phạm Thiên sáng tạo – Mixed Eternalism)
⸻
1. (Vị hữu tình đầu tiên khởi niệm → tưởng mình là Thượng đế)
Vị hữu tình đầu tiên nghĩ: “Ta là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài hữu tình ấy do ta sanh ra… vì ta đã khởi niệm: ‘Mong sao các loài hữu tình khác đến đây!’”
彼初生有情作是念:
「我是梵天、大梵天、全能、最勝、遍見、上尊、天主、造物主、化生主、大尊、命主、自在者、已生與當生諸有情之始祖。
彼諸有情皆由我所生。
何以故?由我先起念:『願更有諸有情至此!』因我之願,他等遂來此。」
Bǐ chūshēng yǒuqíng zuò shì niàn:
“Wǒ shì Fàn Tiān, Dà Fàn Tiān, quánnéng, zuìshèng, biànjiàn, shàngzūn, tiānzhǔ, zàowù zhǔ, huàshēng zhǔ, dàzūn, mìngzhǔ, zìzài zhě, yǐshēng yǔ dāngshēng zhū yǒuqíng zhī shǐzǔ.
Bǐ zhū yǒuqíng jiē yóu wǒ suǒ shēng.
Héyǐ gù? Yóu wǒ xiān qǐ niàn: ‘Yuàn gèng yǒu zhū yǒuqíng zhì cǐ!’ yīn wǒ zhī yuàn, tā děng suì lái cǐ.”
Bỉ sơ sinh hữu tình tác thử niệm:
“Ngã thị Phạm thiên, Đại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thiên chủ, Tạo vật chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Mệnh chủ, Tự tại giả, thủy tổ của chúng sanh đã và sẽ sanh.
Chư hữu tình ấy do ta hóa sanh.
Hà dĩ cố? Do ta khởi nguyện: ‘Nguyện hữu hữu tình lai thử xứ!’
Do ta sở nguyện, bỉ đẳng lai thử.”
“The first being thinks: ‘I am Brahmā, the Great Brahmā, the All-powerful… the Creator… because I wished for other beings, and then they appeared.’”
⸻
2. (Các hữu tình đến sau → cũng tin vào “Thượng đế sáng tạo”)
Các hữu tình đến sau nghĩ: “Vị ấy là Đại Phạm thiên… Chúng ta do Ngài hóa sanh. Vì chúng ta thấy Ngài hiện hữu trước, còn chúng ta sanh sau.”
後來諸有情亦作如是念:
「彼即梵天、大梵天、全能、最勝、造化之主……
我等皆由彼化生。
所以者何?我等見彼先於此處而生,我等則後。」
Hòulái zhū yǒuqíng yì zuò rúshì niàn:
“Bǐ jí Fàn Tiān… wǒděng jiē yóu bǐ huàshēng.
Suǒyǐ zhě hé? Wǒděng jiàn bǐ xiān yú cǐchù ér shēng, wǒděng zé hòu.”
Hậu lai chư hữu tình diệc tác như thị niệm:
“Bỉ tức Phạm thiên… ngã đẳng giai do bỉ hóa sanh.
Sở dĩ hà? Ngã đẳng kiến bỉ tiên sinh ư thử xứ, ngã đẳng tắc hậu.”
“They believe: ‘He is Brahmā, the Creator—because He existed here first and we came later.’”
⸻
3. (Vị đầu tiên sống lâu hơn → khiến ảo tưởng càng mạnh)
Vị hữu tình đầu tiên sống lâu hơn, sắc tốt hơn, uy lực lớn hơn; các hữu tình đến sau thì thọ ngắn hơn, sắc kém hơn, quyền ít hơn.
彼初生有情壽更久、色更妙、力更大;
後來諸有情壽短、色劣、力小。
Bǐ chūshēng yǒuqíng shòu gèng jiǔ, sè gèng miào, lì gèng dà;
hòulái zhū yǒuqíng shòu duǎn, sè liè, lì xiǎo.
Bỉ sơ sinh hữu tình thọ cánh cửu, sắc cánh diệu, lực cánh đại;
hậu lai chư hữu tình thọ đoản, sắc liệt, lực tiểu.
“The first being lives longer, looks more glorious, and has greater power—thus the illusion deepens.”
⸻
4. (Một hữu tình tái sinh xuống cõi người → xuất gia → nhập định)
Một hữu tình từ Phạm cung mạng chung sanh đến cõi này; vị ấy xuất gia, nỗ lực tu tập, tâm nhập định. Khi nhập định, vị ấy nhớ đời sống kia nhưng không nhớ xa hơn.
有一有情從彼梵處命終,生於此世;
彼出家修行,勤奮精進,心得定。
定中唯憶彼一生,不憶其前。
Yǒu yī yǒuqíng cóng bǐ Fàn chù mìngzhōng, shēng yú cǐ shì;
bǐ chūjiā xiūxíng, qínfèn jīngjìn, xīn dé dìng.
Dìng zhōng wéi yì bǐ yīshēng, bù yì qí qián.
Hữu nhất hữu tình tùng bỉ Phạm xử mệnh chung sanh ư thử thế;
bỉ xuất gia tu hành, cần mẫn tinh tấn, tâm đắc định.
Định trung duy ức bỉ nhất sanh, bất ức kỳ tiền.
“One being dies from Brahmā’s realm, is reborn here, and upon attaining concentration, recalls only that life—not earlier ones.”
⸻
5. (Vị này kết luận sai → hình thành tà kiến ‘Một phần thường, một phần vô thường’)
Vị ấy nói: “Phạm thiên kia là thường hằng, bất biến, thường trú. Còn chúng ta do Ngài hóa sanh—chúng ta là vô thường, biến dịch.”
彼遂言:
「彼梵天常住、不變、永恆;
我等由彼化生,故無常、脆弱、易變。」
Bǐ suì yán:
“Bǐ Fàn Tiān chángzhù, bùbiàn, yǒnghéng;
wǒděng yóu bǐ huàshēng, gù wúcháng, cuìruò, yìbiàn.”
Bỉ toại ngôn:
“Bỉ Phạm thiên thường trụ, bất biến, vĩnh hằng;
ngã đẳng do bỉ hóa sanh, cố vô thường, thùy nhược, dị biến.”
“He concludes: ‘Brahmā is eternal, unchanging; we, born from Him, are impermanent.’”
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Phạm thiên – 梵天 (Brahmā)
Đại Phạm thiên – 大梵天
Toàn năng – 全能
Hóa sanh chủ – 化生主
Tổ phụ các chúng sanh – 生類之始祖
Ý sanh – 意生 (mind-made)
Quang Âm thiên – 光音天 (Ābhassara)
Biến nhãn – 遍見 (all-seeing)
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
1. Đây là nguồn gốc của tín ngưỡng “Thượng đế sáng tạo” trong nhiều tôn giáo cổ.
Một hữu tình vô minh + ký ức hạn chế → tưởng mình là Đấng Tạo Hóa.
A being with limited memory mistakenly concludes he is the Creator.
⸻
2. Tà kiến “Một phần thường, một phần vô thường”
• Phạm thiên: thường
• Chúng sanh sinh sau: vô thường
→ Từ đây hình thành thuyết “God eternal – creatures mortal”.
⸻
3. Đức Phật phân tích toàn bộ cosmology để chỉ ra:
Tất cả chỉ là hiểu lầm do ký ức quá khứ không đầy đủ.
The Buddha reveals partial recollection leads to eternalist misconceptions.
(Mixed Eternalism – Trường hợp thứ hai)
⸻
1. (Kết thúc trường hợp 1)
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất… chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận…
諸比丘,此是第一種依據而立一分常住、一分無常之論。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-yī zhǒng yījù ér lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng zhī lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ nhất chủng y cứ nhi lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường chi luận.
⸻
2. (Hỏi: trường hợp thứ hai là gì?)
Trường hợp thứ hai, các Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì mà chấp rằng có loài thường, có loài vô thường?
第二種情況,沙門、婆羅門依何而說:一類常住,一類無常?
Dì-èr zhǒng qíngkuàng, shāmén, Póluómén yī hé ér shuō: yī lèi chángzhù, yī lèi wúcháng?
Đệ nhị chủng tình huống, Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi thuyết nhất loại thường trụ, nhất loại vô thường?
⸻
3. (Chư Thiên Khiddāpadosikā – bị nhiễm bởi dục lạc → mất chánh niệm → thọ mạng chấm dứt)
Có những chư Thiên gọi là Khiddāpadosikā (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Họ sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên thất niệm. Do thất niệm, chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể.
有一類天名曰「嬉笑染污天」。
彼等久住於戲笑欲樂,因耽著而失念;
由失念故,彼等命終,棄捨其身。
Yǒu yī lèi tiān míng yuē “Xīxiào Rǎnwū Tiān”.
Bǐ děng jiǔ zhù yú xìxiào yùlè, yīn dānzhuó ér shīniàn;
yóu shīniàn gù, bǐ děng mìngzhōng, qìshě qí shēn.
Hữu nhất loại Thiên danh viết “Hý tiếu nhiễm ô Thiên”.
Bỉ đẳng cửu trụ ư hí tiếu dục lạc, nhân đam trước nhi thất niệm;
do thất niệm cố, bỉ đẳng mệnh chung, khí xả kỳ thân.
“There are gods called Khiddāpadosikā, corrupted by pleasure; due to delight and heedlessness, they lose mindfulness and die.”
⸻
4. (Một vị trong số ấy tái sinh xuống trần → xuất gia → nhập định)
Một hữu tình từ chư Thiên ấy thác sanh đến đây. Vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; nhờ tinh tấn, nhất tâm, không phóng dật, tâm nhập định. Khi nhập định, vị ấy nhớ đời sống ấy — chớ không nhớ xa hơn.
彼一有情自彼天命終,生於此世。
彼出家、離俗、無家;
以一心精進不放逸,得心入定。
定中唯憶彼一生,不憶其前。
Bǐ yī yǒuqíng zì bǐ tiān mìngzhōng, shēng yú cǐ shì.
Bǐ chūjiā, lí sú, wú jiā;
yǐ yīxīn jīngjìn bù fàngyì, dé xīn rù dìng.
Dìng zhōng wéi yì bǐ yīshēng, bù yì qí qián.
Hữu nhất hữu tình tự bỉ Thiên mệnh chung, sanh ư thử thế.
Bỉ xuất gia, ly tục, vô gia;
dĩ nhất tâm tinh tấn bất phóng dật, đắc tâm nhập định.
Định trung duy ức bỉ nhất sanh, bất ức kỳ tiền.
“One of those gods dies and is reborn here; he later enters monastic life and recalls only that single past life.”
⸻
5. (Vị ấy kết luận sai → hình thành tà kiến ‘loài thường – loài vô thường’)
Vị ấy nói: “Những chư Thiên không bị nhiễm dục lạc thì không thất niệm → không thác sanh → thường hằng, kiên cố, bất biến.
Còn chúng ta bị dục lạc nhiễm hoặc → thất niệm → thác sanh → vô thường, biến dịch.”
彼遂言:
「彼諸無戲笑染污之天,不失念,故不命終,常住不變。
我等戲笑欲染,故失念命終,無常、脆弱、易變。」
Bǐ suì yán:
“Bǐ zhū wú xìxiào rǎnwū zhī tiān, bù shīniàn, gù bù mìngzhōng, chángzhù bùbiàn.
Wǒděng xìxiào yù rǎn, gù shīniàn mìngzhōng, wúcháng, cuìruò, yìbiàn.”
Bỉ toại ngôn:
“Bỉ chư vô hí tiếu nhiễm ô chi Thiên bất thất niệm, cố bất mệnh chung, thường trụ bất biến.
Ngã đẳng hí tiếu dục nhiễm, cố thất niệm mệnh chung, vô thường, thùy nhược, dị biến.”
“He concludes: ‘Those gods who are not corrupted by pleasures do not die—they are eternal.
We who are corrupted die—thus we are impermanent.’”
⸻
6. (Đức Phật kết luận trường hợp 2)
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai… một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận.
諸比丘,此為第二立場……有沙門、婆羅門因之立一分常住、一分無常之論。
Zhū bǐqiū, cǐ wéi dì-èr lìchǎng… yǒu shāmén, Póluómén yīn zhī lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng zhī lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử vi đệ nhị lập trường… hữu Sa-môn, Bà-la-môn nhân thử lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường chi luận.
⸻
📚 THỐNG KÊ TỪ VỰNG
Khiddāpadosikā – 嬉笑染污天 (Thiên bị nhiễm bởi hý tiếu dục lạc)
Hý tiếu dục lạc – 戲笑欲樂 (pleasurable play, indulgence)
Thất niệm – 失念 (loss of mindfulness)
Mệnh chung – 命終 (death)
Nhất phần thường – 一分常住
Nhất phần vô thường – 一分無常
⸻
📖 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ
1. Vì sao tà kiến này sinh ra?
Do nhớ đúng một đời nhưng không nhớ xa hơn → hiểu lầm quy luật sinh tử.
This view arises because the meditator recalls only one past life and generalizes incorrectly.
⸻
2. Bản chất sai lầm
• Chư thiên không chết ngay lập tức vì thọ mạng dài → bị tưởng là “thường”.
• Chúng sinh khác chết sớm → bị tưởng là “vô thường theo bản chất”.
Long-lived beings appear eternal; short-lived beings appear impermanent.
⸻
3. Đức Phật chỉ ra nguyên nhân sâu xa nhất:
Tất cả tà kiến đều phát sinh từ tri kiến giới hạn + chấp thủ.
Every wrong view in the Brahmajāla Sutta arises from limited vision combined with clinging.
(Một phần Thường – Một phần Vô thường – Manopadosikā)
⸻
1. Mở đầu câu hỏi
Trường hợp thứ ba… Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì… chấp một phần thường, một phần vô thường?
第三種情況:沙門、婆羅門依何而立一分常住、一分無常之論?
Dì-sān zhǒng qíngkuàng: shāmén, Póluómén yī hé ér lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng zhī lùn?
Đệ tam chủng tình huống: Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường chi luận?
⸻
2. Chư Thiên Manopadosikā – bị nhiễm hoặc bởi tâm trí
Có những hạng chư Thiên gọi là Manopadosikā (bị nhiễm hoặc bởi tâm trí).
有一類天名曰心染污天。
Yǒu yī lèi tiān míng yuē Xīn Rǎnwū Tiān.
Hữu nhất loại Thiên danh viết Tâm Nhiễm Ô Thiên.
Chúng sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau.
彼等久住於相互嫉妒之煎熬中。
Bǐ děng jiǔ zhù yú xiānghù jídù zhī jiān’áo zhōng.
Bỉ đẳng cửu trụ ư tương hỗ tật đố chi tiêm ao trung.
Vì sống lâu ngày nung nấu bởi đố kỵ… tâm trí oán ghét lẫn nhau.
因久受嫉妒煎熬,心互懷怨憎。
Yīn jiǔ shòu jídù jiān’áo, xīn hù huái yuànzēng.
Nhân cửu thọ tật đố tiêm ao, tâm hỗ hoài oán tăng.
Vì tâm trí oán ghét → thân mệt và tâm mệt.
由怨憎故,身疲心倦。
Yóu yuànzēng gù, shēn pí xīn juàn.
Do oán tăng cố, thân bì tâm quyện.
Các chư Thiên ấy thác sanh, bỏ thân.
彼諸天遂命終捨身。
Bǐ zhū tiān suì mìngzhōng shěshēn.
Bỉ chư thiên toại mệnh chung xả thân.
⸻
3. Một hữu tình từ cõi đó tái sinh xuống nhân gian → xuất gia → nhập định
Một hữu tình từ đó thác sanh đến cõi này.
其中一有情自彼天命終而生於此。
Qízhōng yī yǒuqíng zì bǐ tiān mìngzhōng ér shēng yú cǐ.
Kỳ trung nhất hữu tình tự bỉ thiên mệnh chung nhi sanh ư thử.
Đến đây, vị ấy xuất gia, sống không gia đình.
來此後出家,棄家無家而住。
Lái cǐ hòu chūjiā, qìjiā wújiā ér zhù.
Lai thử hậu xuất gia, khí gia vô gia nhi trụ.
Nhờ nhất tâm – tinh tấn – không phóng dật – chánh niệm → tâm nhập định.
因一心精進不放逸、正念故,心得入定。
Yīn yīxīn jīngjìn bù fàngyì, zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Do nhất tâm tinh tấn bất phóng dật, chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
Trong định, vị ấy nhớ đời sống ấy, không nhớ xa hơn.
定中唯憶彼一生,不憶更前諸生。
Dìng zhōng wéi yì bǐ yīshēng, bù yì gèngqián zhū shēng.
Định trung duy ức bỉ nhất sanh, bất ức canh tiền chư sanh.
⸻
4. Vị ấy kết luận sai: chư Thiên không bị tâm nhiễm = thường; mình bị tâm nhiễm = vô thường
Vị ấy nói: “Những chư Thiên không bị tâm nhiễm… không oán ghét… nên thân không mệt, tâm không mệt → không thác sanh → thường trú.”
彼言:「彼諸不為心染污之天,不互相怨憎,故身不疲,心不倦,不捨其身,常住不變。」
Bǐ yán: “Bǐ zhū bù wéi xīn rǎnwū zhī tiān, bù hùxiāng yuànzēng, gù shēn bù pí, xīn bù juàn, bù shě qí shēn, chángzhù bùbiàn.”
Bỉ ngôn: “Bỉ chư bất vi tâm nhiễm ô chi Thiên, bất hỗ tương oán tăng, cố thân bất bì, tâm bất quyện, bất xả kỳ thân, thường trụ bất biến.”
“Còn chúng ta bị tâm nhiễm… đố kỵ… nên thân mệt tâm mệt → thác sanh → vô thường.”
「我等為心所染,互懷嫉妒,故身疲心倦,命終捨身,無常易變。」
“Wǒděng wéi xīn suǒ rǎn, hù huái jídù, gù shēn pí xīn juàn, mìngzhōng shě shēn, wúcháng yì biàn.”
“Ngã đẳng vi tâm sở nhiễm, hỗ hoài tật đố, cố thân bì tâm quyện, mệnh chung xả thân, vô thường dị biến.”
⸻
📚 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH SONG NGỮ (bám sát – không diễn giải lệch)
1. “Manopadosikā” là chư thiên bị nhiễm bởi tâm trí, đặc biệt là đố kỵ.
“Manopadosikā” refers to gods corrupted in mind, especially by jealousy.
2. Họ chết vì tâm lý tiêu cực kéo dài làm thân tâm suy kiệt.
They die because prolonged negative mental states exhaust both body and mind.
3. Một hữu tình thuộc nhóm này tái sinh xuống nhân gian và chỉ nhớ đúng một đời quá khứ.
One being from that group is reborn among humans and recalls only that one past life.
4. Vì thấy nhóm “không nhiễm tâm trí” không chết trong thời gian mình quan sát → tưởng là thường hằng.
He sees that the “uncorrupted” gods do not die within his limited range of memory and assumes they are eternal.
5. Vì nhóm bị nhiễm tâm trí thì chết → ông kết luận họ là vô thường.
Because the corrupt group dies, he concludes they are impermanent.
6. Như vậy tà kiến sinh ra từ ký ức hạn hẹp và khái quát hóa sai lầm.
Thus, this wrong view arises from limited recollection and faulty generalization.
(Partial Eternalism – Case 4)
⸻
1. Kết thúc trường hợp thứ ba
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ ba…
諸比丘,此是第三種依據而立此論。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-sān zhǒng yījù ér lì cǐ lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ tam chủng y cứ nhi lập thử luận.
⸻
2. Hỏi sang trường hợp thứ tư
Trường hợp thứ tư… Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì để chủ trương một phần Thường, một phần Vô thường?
第四種情況:沙門、婆羅門依何而立一分常住、一分無常之論?
Dì-sì zhǒng qíngkuàng: shāmén, Póluómén yī hé ér lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng zhī lùn?
Đệ tứ chủng tình huống: Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường chi luận?
⸻
3. Nhà suy luận → phân tích → kết luận sai lầm
Có Sa-môn, hay Bà-la-môn là nhà suy luận, nhà thẩm sát.
Do sự chia chẻ biện bác của suy luận và tùy thuận theo thẩm sát, vị này tuyên bố:
此有沙門、婆羅門,為思辨者、審察者。
因思辨分析、隨審察推論,彼作如是宣說:
Cǐ yǒu shāmén, Póluómén, wéi sībiàn zhě, shěnchá zhě.
Yīn sībiàn fēnxī, suí shěnchá tuīlùn, bǐ zuò rúshì xuānshuō:
Thử hữu Sa-môn, Bà-la-môn, vi tư biện giả, thẩm sát giả.
Nhân tư biện phân tích, tùy thẩm sát suy luận, bỉ tác như thị tuyên thuyết:
⸻
4. Tà luận: thân vô thường – tâm thường trụ
(a) Sáu căn – vô thường
“Cái gọi là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân — cái bản ngã ấy vô thường, không kiên cố, bị chuyển biến.”
「所謂眼、耳、鼻、舌、身——此之自我無常、不堅固、為變遷法。」
“Suǒwèi yǎn, ěr, bí, shé, shēn — cǐ zhī zìwǒ wúcháng, bù jiāngù, wéi biànqiān fǎ.”
Sở vị nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân — thử chi tự ngã vô thường, bất kiên cố, vi biến thiên pháp.
(b) Tâm – ý – thức → thường trụ
“Cái gọi là tâm, ý, thức — cái bản ngã ấy thường còn, bất biến, thường trú, không bị chuyển biến, thường hằng mãi mãi.”
「所謂心、意、識——此之自我常住、不變、恆存,永不轉變。」
“Suǒwèi xīn, yì, shí — cǐ zhī zìwǒ chángzhù, bùbiàn, héngcún, yǒng bù zhuǎnbiàn.”
Sở vị tâm, ý, thức — thử chi tự ngã thường trụ, bất biến, hằng tồn, vĩnh bất chuyển biến.
Đây chính là:
→ Thân vô thường
→ Tâm thường hằng
→ ⇒ Tà kiến “nhất phần thường – nhất phần vô thường” dựa vào nhị nguyên thân–tâm.
⸻
5. Kết luận trường hợp thứ tư
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ tư…
諸比丘,此是第四種依據而立此論。
Zhū bǐqiū, cǐ shì dì-sì zhǒng yījù ér lì cǐ lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử thị đệ tứ chủng y cứ nhi lập thử luận.
⸻
6. Tổng kết: đủ bốn luận chấp
Những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương một phần Thường, một phần Vô thường với bốn luận chấp.
Nếu ai chấp ngã và thế giới là thường → họ đều dựa vào bốn luận chấp này, hoặc một trong bốn. Ngoài ra không có luận chấp nào khác.
此諸沙門、婆羅門,以四種論立一分常住、一分無常。
若有沙門婆羅門說自我與世間常住,則或執四論,或執其一,更無餘說。
Cǐ zhū shāmén, Póluómén, yǐ sì zhǒng lùn lì yī fēn chángzhù, yī fēn wúcháng.
Ruò yǒu shāmén Póluómén shuō zìwǒ yǔ shìjiān chángzhù, zé huò zhí sì lùn, huò zhí qí yī, gèng wú yú shuō.
Thử chư Sa-môn, Bà-la-môn dĩ tứ chủng luận lập nhất phần thường trụ, nhất phần vô thường.
Nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn thuyết tự ngã dữ thế gian thường trụ, tắc hoặc chấp tứ luận, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô dư thuyết.
⸻
7. Đức Phật: biết rõ nguồn gốc – hậu quả – và vượt ngoài tất cả kiến chấp
Như Lai biết rằng: “Những sở kiến ấy… chấp trước như vậy… đưa đến những cõi thú như vậy, tác thành những định mạng như vậy”.
Như Lai biết như vậy, và biết hơn thế nữa; Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ vậy nội tâm tịch tịnh.
如來知:「此諸見,如是執著,如是依止,將導至如是去處、如是命趣。」
如來如是知,亦知過於此,而於所知不取著;
故內心得寂靜。
Rúlái zhī: “Cǐ zhū jiàn, rúshì zhízhuó, rúshì yīzhǐ, jiāng dǎozhì rúshì qùchù, rúshì mìngqù.”
Rúlái rúshì zhī, yì zhī guò yú cǐ, ér yú suǒ zhī bù qǔzhuó;
gù nèixīn dé jìjìng.
Như Lai tri: “Thử chư kiến như thị chấp trước, như thị y chỉ, tương đạo chí như thị thú xứ, như thị mệnh thú.”
Như Lai như thị tri, diệc tri quá ư thử, nhi ư sở tri bất thủ trước; cố nội tâm đắc tịch tịnh.
⸻
8. Đức Phật thấu triệt: tập khởi – đoạn diệt – vị ngọt – nguy hiểm – xuất ly của thọ
Ngài như thật biết sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm, sự xuất ly của chúng.
Nhờ vậy, Như Lai giải thoát hoàn toàn, không chấp thủ.
如實知諸受之集、滅、味、患、離;
因此如來究竟解脫,無有取著。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn, lí;
yīncǐ Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu qǔzhuó.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn, ly;
do thử Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu thủ trước.
⸻
📚 CHÚ GIẢI VIỆT–ANH
1. Luận chấp thứ tư dựa trên nhị nguyên thân–tâm.
The fourth doctrine arises from a dualistic distinction between body and mind.
2. Thân (sáu căn) thấy rõ sinh–diệt → bị cho là vô thường.
The physical sense faculties are seen to arise and cease, thus judged impermanent.
3. Tâm – ý – thức khó thấy sinh–diệt → bị tưởng là thường hằng.
Mind, intellect, and consciousness appear continuous, thus mistaken as eternal.
4. Đây là sai lầm do suy luận thuần lý, không phải do thiền định hay ký ức.
This wrong view comes purely from speculative reasoning, not from meditative recollection.
5. Đức Phật vượt ngoài mọi kiến chấp vì Ngài thấy toàn bộ: tập → diệt → vị ngọt → nguy hiểm → xuất ly của các thọ.
The Buddha transcends all views because He sees the origin, cessation, gratification, danger, and escape from feelings.
6. Chính nhờ không chấp vào tri kiến, Ngài an trú tịch tịnh và hoàn toàn giải thoát.
By not clinging to knowledge itself, He abides in peace and full liberation.
1️⃣ Những pháp sâu kín – mở sang Hữu biên / Vô biên
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể nhận biết.
諸比丘,如是諸法,甚深難見、難證、寂靜、妙善,超越虛妄戲論,微細惟智者能知。
Zhū bǐqiū, rúshì zhū fǎ, shènshēn nánjiàn, nánzhèng, jìjìng, miàoshàn, chāoyuè xūwàng xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng zhī.
Chư Tỷ-kheo, như thị chư pháp, thậm thâm nan kiến, nan chứng, tịch tịnh, diệu thiện, siêu việt hư vọng hí luận, vi tế duy trí giả năng tri.
These dhammas are deep, hard to see and realize, peaceful, sublime, beyond mere logic, and only the wise can truly know them.
Những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
此等諸法,唯真實正讚如來者方為所說。
Cǐ děng zhū fǎ, wéi zhēnshí zhèng zàn Rúlái zhě fāng wéi suǒ shuō.
Thử đẳng chư pháp, duy chân thật chánh tán Như Lai giả phương vi sở thuyết.
Only those who truly and rightly praise the Tathāgata speak about these dhammas.
⸻
2️⃣ Mở đề: Hữu biên / Vô biên luận
Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là Hữu biên Vô biên với bốn luận chấp.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立有限無限論,執此世界或有限或無限,有四種見解。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì yǒuxiàn wúxiàn lùn, zhí cǐ shìjiè huò yǒuxiàn huò wúxiàn, yǒu sì zhǒng jiànjiě.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập hữu hạn vô hạn luận, chấp thử thế giới hoặc hữu hạn hoặc vô hạn, hữu tứ chủng kiến giải.
There are ascetics and Brahmins who hold the finite–infinite thesis, claiming the world is finite or infinite in four different ways.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên với bốn luận chấp?
而此等沙門、婆羅門依何所據,而立有限無限之說?
Ér cǐ děng shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, ér lì yǒuxiàn wúxiàn zhī shuō?
Nhi thử đẳng Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ, nhi lập hữu hạn vô hạn chi thuyết?
On what basis do they found these four doctrines about the world being finite or infinite?
⸻
3️⃣ Trường hợp thứ nhất – Thế giới hữu biên
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định.
諸比丘,此中有沙門或婆羅門,由熱心、精進、勤策、不放逸、正念故,心得入定。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén huò Póluómén, yóu rèxīn, jīngjìn, qíncè, bù fàngyì, zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn hoặc Bà-la-môn, do nhiệt tâm, tinh tấn, cần sách, bất phóng dật, chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
Here a certain ascetic or Brahmin, being zealous, energetic, diligent, unremissive, and mindful, attains concentration.
Khi tâm nhập định, vị ấy sống ở trong đời với tư tưởng thế giới là hữu biên.
心入定時,於世間中作如是想:世間是有限。
Xīn rùdìng shí, yú shìjiān zhōng zuò rúshì xiǎng: shìjiān shì yǒuxiàn.
Tâm nhập định thời, ư thế gian trung tác như thị tưởng: thế gian thị hữu hạn.
When the mind is concentrated, he dwells with the notion: “The world is finite.”
Vị ấy nói rằng: “Thế giới này là hữu biên, có một đường vòng chung quanh. Vì sao vậy? Vì tôi, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định.
彼言:「此世間有限,有一周匝圍繞。何以故?我以一心、精進、勤策、不放逸、正念故,心得入定。
Bǐ yán: “Cǐ shìjiān yǒuxiàn, yǒu yī zhōuzā wéirào. Héyǐ gù? Wǒ yǐ yīxīn, jīngjìn, qíncè, bù fàngyì, zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Bỉ ngôn: “Thử thế gian hữu hạn, hữu nhất chu táp vi nhiễu. Hà dĩ cố? Ngã dĩ nhất tâm, tinh tấn, cần sách, bất phóng dật, chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
He says: “This world is finite, encircled by a boundary. Why? Because through one-pointedness, energy, diligence, vigilance, and right mindfulness I attained concentration.
Khi tâm nhập định, tôi sống với tư tưởng thế giới là hữu biên. Do đó tôi biết rằng thế giới này là hữu biên, có một đường vòng chung quanh”.
心入定時,我作世間有限之想;是故我知此世間有限,有一周匝。」
Xīn rùdìng shí, wǒ zuò shìjiān yǒuxiàn zhī xiǎng; shì gù wǒ zhī cǐ shìjiān yǒuxiàn, yǒu yī zhōuzā.
Tâm nhập định thời, ngã tác thế gian hữu hạn chi tưởng; thị cố ngã tri thử thế gian hữu hạn, hữu nhất chu táp.
When my mind was concentrated, I perceived the world as finite; therefore I know it is finite and bounded.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên và vô biên.
諸比丘,是為第一種依此而立有限無限論,執世間為有限。
Zhū bǐqiū, shì wéi dì-yī zhǒng yī cǐ ér lì yǒuxiàn wúxiàn lùn, zhí shìjiān wéi yǒuxiàn.
Chư Tỷ-kheo, thị vi đệ nhất chủng y thử nhi lập hữu hạn vô hạn luận, chấp thế gian vi hữu hạn.
This, bhikkhus, is the first case where some ascetics and Brahmins assert the finite–infinite thesis by claiming the world is finite.
⸻
4️⃣ Trường hợp thứ hai – Thế giới vô biên
Trường hợp thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên và vô biên?
第二種情況:復有沙門、婆羅門依何而立有限無限論,執世間為無限?
Dì-èr zhǒng qíngkuàng: fù yǒu shāmén, Póluómén yī hé ér lì yǒuxiàn wúxiàn lùn, zhí shìjiān wéi wúxiàn?
Đệ nhị chủng tình huống: phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi lập hữu hạn vô hạn luận, chấp thế gian vi vô hạn?
Secondly, on what basis do others uphold the finite–infinite thesis by claiming the world is infinite?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định.
諸比丘,此中有沙門、婆羅門,以一心、精進、勤策、不放逸、正念故,心得入定。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén, Póluómén, yǐ yīxīn, jīngjìn, qíncè, bù fàngyì, zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn, Bà-la-môn, dĩ nhất tâm, tinh tấn, cần sách, bất phóng dật, chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
Here, another ascetic or Brahmin, through the same factors, attains concentration.
Khi tâm nhập định, vị ấy sống ở trong đời với tư tưởng thế giới là vô biên.
心入定時,於世間中作如是想:世間是無限。
Xīn rùdìng shí, yú shìjiān zhōng zuò rúshì xiǎng: shìjiān shì wúxiàn.
Tâm nhập định thời, ư thế gian trung tác như thị tưởng: thế gian thị vô hạn.
When the mind is concentrated, he dwells with the notion: “The world is infinite.”
Vị ấy nói: “Thế giới này là vô biên, không có giới hạn. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: ‘Thế giới này là hữu biên, có một đường vòng xung quanh’, những vị ấy nói không đúng sự thật. Thế giới này là vô biên, không có giới hạn.
彼言:「此世間無限,無有邊際。凡說『世間有限,有一周匝』者,皆不真實;此世間實為無限,無有邊際。
Bǐ yán: “Cǐ shìjiān wúxiàn, wú yǒu biānjì. Fán shuō ‘shìjiān yǒuxiàn, yǒu yī zhōuzā’ zhě, jiē bù zhēnshí; cǐ shìjiān shí wéi wúxiàn, wú yǒu biānjì.
Bỉ ngôn: “Thử thế gian vô hạn, vô hữu biên tế. Phàm thuyết ‘thế gian hữu hạn, hữu nhất chu táp’ giả, giai bất chân thật; thử thế gian thiệt vi vô hạn, vô hữu biên tế.
He says: “This world is infinite, without boundary. Those who say it is finite and encircled are wrong; in truth it is infinite and without limit.
Tại sao vậy? Vì tôi nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, tôi sống với tư tưởng thế giới là vô biên. Do đó tôi biết: ‘Thế giới này là vô biên, không có giới hạn’”.
何以故?以我一心、精進、勤策、不放逸、正念故,心得入定;
心入定時,作世間無限之想,是故我知:此世間無限,無有邊際。」
Héyǐ gù? Yǐ wǒ yīxīn, jīngjìn, qíncè, bù fàngyì, zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng;
xīn rùdìng shí, zuò shìjiān wúxiàn zhī xiǎng, shì gù wǒ zhī: cǐ shìjiān wúxiàn, wú yǒu biānjì.
Hà dĩ cố? Dĩ ngã nhất tâm, tinh tấn, cần sách, bất phóng dật, chánh niệm cố, tâm đắc nhập định;
tâm nhập định thời, tác thế gian vô hạn chi tưởng, thị cố ngã tri: thử thế gian vô hạn, vô hữu biên tế.
Why? Because in my concentration I perceived the world as infinite; therefore I know it is infinite and unbounded.
⸻
🔍 TỪ VỰNG
• hữu biên – finite, having a boundary
• vô biên – infinite, boundless
• đường vòng chung quanh / chu táp – encircling boundary
• hữu hạn / vô hạn – limited / unlimited
• nhập định – to enter concentration (samādhi)
• hý luận / luận lý suông – idle speculation, mere logic
⸻
🧠 CHÚ GIẢI NGẮN (Việt–Anh)
Nhóm tà kiến này sinh ra từ trải nghiệm thiền định chủ quan, rồi chấp tri kiến trong định là tuyệt đối.
This set of wrong views arises from subjective meditative experiences that are mistaken for absolute knowledge.
Người thấy “hữu biên” và người thấy “vô biên” đều dựa trên một loại tưởng trong định, chứ không phải trí tuệ thấy duyên sinh.
Both the “finite” and “infinite” views rest on a perception in samādhi, not on wisdom seeing dependent origination.
Đức Phật chỉ ra: các kiến giải này vẫn còn thuộc phạm vi hý luận về “thế giới”, chưa chạm tới giải thoát khổ.
The Buddha shows that such cosmological views remain mere speculation about the “world” and do not touch the problem of suffering and its cessation.
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ HAI — KẾT THÚC
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên.
諸比丘,是為第二種依此而立有限無限之論。
Zhū bǐqiū, shì wéi dì-èr zhǒng yī cǐ ér lì yǒuxiàn wúxiàn zhī lùn.
Chư Tỷ-kheo, thị vi đệ nhị chủng y thử nhi lập hữu hạn vô hạn chi luận.
This is the second case where ascetics uphold the finite–infinite thesis.
⸻
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ BA — THẾ GIỚI VỪA HỮU BIÊN VỪA VÔ BIÊN
1️⃣ Mở đề
Trường hợp thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên?
第三種情況:復有沙門、婆羅門,依何而立世間有限無限之說?
Dì-sān zhǒng qíngkuàng: fù yǒu shāmén, Póluómén, yī hé ér lì shìjiān yǒuxiàn wúxiàn zhī shuō?
Đệ tam chủng tình huống: phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn, y hà nhi lập thế gian hữu hạn vô hạn chi thuyết?
What is the third basis for claiming the world is both finite and infinite?
⸻
2️⃣ Sa-môn nhập định → thấy “trên–dưới hữu biên / ngang vô biên”
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định.
諸比丘,此中有沙門、婆羅門,由一心精進勤策不放逸正念故,心得入定。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén, Póluómén, yóu yīxīn jīngjìn qíncè bù fàngyì zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn, Bà-la-môn, do nhất tâm tinh tấn cần sách bất phóng dật chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
Here, an ascetic attains concentration through effort and mindfulness.
Khi tâm nhập định, vị ấy sống ở trong đời với tư tưởng thế giới là hữu biên về phía trên, phía dưới, và thế giới là vô biên về phía bề ngang.
心入定時,作念:上有邊,下有邊,橫廣無邊。
Xīn rùdìng shí, zuò niàn: shàng yǒu biān, xià yǒu biān, héng guǎng wú biān.
Tâm nhập định thời, tác niệm: thượng hữu biên, hạ hữu biên, hoành quảng vô biên.
In concentration he perceives: above finite, below finite, sideways infinite.
Vị ấy nói: “Thế giới này là hữu biên và vô biên.”
彼言:「此世間亦有限亦無限。」
Bǐ yán: “Cǐ shìjiān yì yǒuxiàn yì wúxiàn.”
Bỉ ngôn: “Thử thế gian diệc hữu hạn diệc vô hạn.”
He says: “The world is both finite and infinite.”
⸻
3️⃣ Phản bác hai phe trước
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là hữu biên, có một đường vòng xung quanh”, những vị ấy nói không đúng sự thật.
凡言「世間有限有周匝者」,皆非實語。
Fán yán “shìjiān yǒuxiàn yǒu zhōuzā zhě”, jiē fēi shí yǔ.
Phàm ngôn “thế gian hữu hạn hữu chu táp giả”, giai phi thật ngữ.
Those claiming the world is only finite are wrong.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là vô biên không có giới hạn”, những vị ấy nói không đúng sự thật.
凡言「世間無限無邊際者」,亦非實語。
Fán yán “shìjiān wúxiàn wú biānjì zhě”, yì fēi shí yǔ.
Phàm ngôn “thế gian vô hạn vô biên tế giả”, diệc phi thật ngữ.
Those claiming the world is only infinite are wrong.
⸻
4️⃣ Lý do chấp “vừa hữu biên vừa vô biên”
Tại sao vậy? Vì rằng, tôi nhờ nhất tâm… nên tâm nhập định.
何以故?以我一心精進勤策不放逸正念故,心得入定。
Héyǐ gù? Yǐ wǒ yīxīn jīngjìn qíncè bù fàngyì zhèngniàn gù, xīn dé rùdìng.
Hà dĩ cố? Dĩ ngã nhất tâm tinh tấn cần sách bất phóng dật chánh niệm cố, tâm đắc nhập định.
Why? Because owing to my collected mind I attained concentration.
Khi tâm nhập định, tôi sống với tư tưởng: thế giới là hữu biên về phía trên, phía dưới, và vô biên về phía ngang.
心入定時,作上有邊、下有邊、橫廣無邊之想。
Xīn rùdìng shí, zuò shàng yǒu biān, xià yǒu biān, héng guǎng wú biān zhī xiǎng.
Tâm nhập định thời, tác thượng hữu biên, hạ hữu biên, hoành quảng vô biên chi tưởng.
In concentration I perceived: up finite, down finite, sideways infinite.
Do vậy tôi biết: “Thế giới này vừa hữu biên vừa vô biên”.
是故我知:世間亦有限亦無限。
Shì gù wǒ zhī: shìjiān yì yǒuxiàn yì wúxiàn.
Thị cố ngã tri: thế gian diệc hữu hạn diệc vô hạn.
Thus I know the world is both finite and infinite.
⸻
5️⃣ Kết luận trường hợp thứ ba
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ ba…
諸比丘,此為第三種依此而立有限無限之論。
Zhū bǐqiū, cǐ wéi dì-sān zhǒng yī cǐ ér lì yǒuxiàn wúxiàn zhī lùn.
Chư Tỷ-kheo, thử vi đệ tam chủng y thử nhi lập hữu hạn vô hạn chi luận.
This is the third case of the finite–infinite thesis.
⸻
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ TƯ
Trường hợp thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên?
第四種情況:復有沙門、婆羅門依何而立世間有限無限之說?
Dì-sì zhǒng qíngkuàng: fù yǒu shāmén, Póluómén yī hé ér lì shìjiān yǒuxiàn wúxiàn zhī shuō?
Đệ tứ chủng tình huống: phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn y hà nhi lập thế gian hữu hạn vô hạn chi thuyết?
What is the fourth basis on which they claim the world is finite–infinite?
⭐ 1. Trường hợp thứ tư – Thế giới “phi hữu biên, phi vô biên”
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà suy luận, là nhà thẩm sát.
諸比丘,此中有沙門或婆羅門,為思辯者、為審察者。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén huò Póluómén, wéi sībiàn zhě, wéi shěnchá zhě.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn hoặc Bà-la-môn, vi tư biện giả, vi thẩm sát giả.
Here, bhikkhus, there is an ascetic or Brahmin who is a reasoner and an investigator.
Do sự chia chẻ biện bác của suy luận và sự tùy thuận theo thẩm sát, vị này tuyên bố như sau:
由思辯分析、隨審察推求,彼作如是宣說:
Yóu sībiàn fēnxī, suí shěnchá tuīqiú, bǐ zuò rúshì xuānshuō:
Do tư biện phân tích, tùy thẩm sát truy cầu, bỉ tác như thị tuyên thuyết:
Relying on reasoning and analysis, he declares the following.
“Thế giới này không phải là hữu biên, cũng không phải là vô biên.
「此世間非有限,亦非無限。
“Cǐ shìjiān fēi yǒuxiàn, yì fēi wúxiàn.
“Thử thế gian phi hữu hạn, diệc phi vô hạn.
‘This world is neither finite nor infinite.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: ‘Thế giới này là hữu biên có giới hạn xung quanh’, những vị ấy nói không đúng sự thật.
凡言『世間有限有邊』之沙門婆羅門,皆非實語。
Fán yán ‘shìjiān yǒuxiàn yǒu biān’ zhī shāmén Póluómén, jiē fēi shí yǔ.
Phàm ngôn ‘thế gian hữu hạn hữu biên’ chi Sa-môn Bà-la-môn, giai phi thật ngữ.
Those who say the world is finite with a boundary speak falsely.
Lại những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: ‘Thế giới này là vô biên không có giới hạn’ những vị ấy cũng nói không đúng sự thật.
復言『世間無限無邊』者,亦非實語。
Fù yán ‘shìjiān wúxiàn wú biān’ zhě, yì fēi shí yǔ.
Phục ngôn ‘thế gian vô hạn vô biên’ giả, diệc phi thật ngữ.
Those who say the world is infinite and boundless also speak falsely.
Lại những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: ‘Thế giới này vừa là hữu biên vừa là vô biên’, những vị ấy cũng nói không đúng sự thật.
又言『世間亦有限亦無限』者,亦非實語。
Yòu yán ‘shìjiān yì yǒuxiàn yì wúxiàn’ zhě, yì fēi shí yǔ.
Hựu ngôn ‘thế gian diệc hữu hạn diệc vô hạn’ giả, diệc phi thật ngữ.
Those who say the world is both finite and infinite also speak falsely.
Thế giới này cũng không phải là hữu biên, cũng không phải là vô biên.”
「此世間非有限,非無限。」
“Cǐ shìjiān fēi yǒuxiàn, fēi wúxiàn.”
“Thử thế gian phi hữu hạn, phi vô hạn.”
‘The world is neither finite nor infinite.’
⸻
⭐ 2. Kết luận nhóm Hữu biên / Vô biên
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương Hữu biên Vô biên luận với bốn luận chấp.
諸比丘,如是沙門、婆羅門,以四種見立有限無限之論。
Zhū bǐqiū, rúshì shāmén, Póluómén, yǐ sì zhǒng jiàn lì yǒuxiàn wúxiàn zhī lùn.
Chư Tỷ-kheo, như thị Sa-môn, Bà-la-môn, dĩ tứ chủng kiến lập hữu hạn vô hạn chi luận.
Thus these ascetics uphold the finite–infinite thesis in four ways.
Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
若有沙門、婆羅門說世間有限無限,則或執此四論,或執其中之一,更無餘說。
Ruò yǒu shāmén, Póluómén shuō shìjiān yǒuxiàn wúxiàn, zé huò zhí cǐ sì lùn, huò zhí qí zhōng zhī yī, gèng wú yú shuō.
Nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn thuyết thế gian hữu hạn vô hạn, tắc hoặc chấp thử tứ luận, hoặc chấp kỳ trung chi nhất, cánh vô dư thuyết.
Anyone who claims the world is finite or infinite falls within these four views and no others.
⸻
⭐ 3. Đức Phật vượt ngoài các kiến chấp
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「此諸見,如是執取,如是依止,將導至如是趣向、如是命運。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Cǐ zhū jiàn, rúshì zhī qǔ, rúshì yīzhǐ, jiāng dǎozhì rúshì qùxiàng, rúshì mìngyùn.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Thử chư kiến, như thị chi thủ, như thị y chỉ, tương đạo chí như thị thú hướng, như thị mệnh vận.”
The Tathāgata knows how such views, when grasped, lead to corresponding destinies.
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦復更知過此之上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì fù gèng zhī guò cǐ zhī shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc phục cánh tri quá thử chi thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows this and even beyond this, yet does not cling to what is known.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
由不執取所知故,內心得寂靜。
Yóu bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Do bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling to knowledge, his heart is peaceful.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患、離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn, lí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn, ly.
He truly knows the arising, ceasing, gratification, danger, and escape of feelings.
Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執取。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhíqǔ.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp thủ.
With such knowledge the Tathāgata is fully liberated, without any clinging.
⸻
⭐ 4. Lặp lại: những pháp sâu kín & ai tán thán Như Lai cho đúng
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người trí mới có thể nhận biết.
諸比丘,此等諸法,甚深難見、難證、寂靜、妙善,超越戲論,微細惟智者能知。
Zhū bǐqiū, cǐ děng zhū fǎ, shènshēn nánjiàn, nánzhèng, jìjìng, miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng zhī.
Chư Tỷ-kheo, thử đẳng chư pháp, thậm thâm nan kiến, nan chứng, tịch tịnh, diệu thiện, siêu việt hí luận, vi tế duy trí giả năng tri.
These dhammas are deep, hard to see, peaceful, sublime, beyond speculation, and only the wise can know them.
Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自悟而宣說此等諸法;唯如實正讚如來者,乃說是法。
Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō cǐ děng zhū fǎ; wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, nǎi shuō shì fǎ.
Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết thử đẳng chư pháp; duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thị pháp.
The Tathāgata realizes these for himself and teaches them; only those who truly praise him speak of such dhammas.
⸻
⭐ 5. Mở sang “Ngụy biện luận” – lươn lẹo như con lươn
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立謬辯論。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì miùbiàn lùn.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập ngụy biện luận.
There are ascetics and Brahmins who hold the doctrine of evasive equivocation.
Khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp.
於此問事、彼問事時,以四種見,用言辭支離,如鱔如鰻之滑脫。
Yú cǐ wèn shì, bǐ wèn shì shí, yǐ sì zhǒng jiàn, yòng yáncí zhīlí, rú shàn rú mán zhī huátuō.
Ư thử vấn sự, bỉ vấn sự thời, dĩ tứ chủng kiến, dụng ngôn từ chi ly, như thiện như man chi hoạt thoát.
When questioned, they wriggle like eels with evasive speech based on four motives.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương ngụy biện luận…?
而此諸沙門、婆羅門依何所據而作如是謬辯?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù ér zuò rúshì miùbiàn?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi tác như thị ngụy biện?
On what are they relying when they fall into such eel-wriggling?
⸻
⭐ 6. Loại ngụy biện thứ nhất – sợ sai, sợ phiền não khởi lên
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không như thật biết “Đây là thiện”, không như thật biết “Đây là bất thiện”.
諸比丘,此中有沙門或婆羅門,不如實知「此是善」,不如實知「此是不善」。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén huò Póluómén, bù rúshí zhī “cǐ shì shàn”, bù rúshí zhī “cǐ shì bùshàn”.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn hoặc Bà-la-môn, bất như thật tri “thử thị thiện”, bất như thật tri “thử thị bất thiện”.
Here, there is a person who does not truly know ‘this is wholesome’ or ‘this is unwholesome’.
Vị ấy nghĩ: Tôi không như thật biết: “Đây là thiện”, không như thật biết: “Đây là bất thiện”…
彼作是念:我不如實知「此是善」,不如實知「此是不善」…
Bǐ zuò shì niàn: wǒ bù rúshí zhī “cǐ shì shàn”, bù rúshí zhī “cǐ shì bùshàn”…
Bỉ tác thị niệm: ngã bất như thật tri “thử thị thiện”, bất như thật tri “thử thị bất thiện”…
He thinks: ‘I do not truly know what is wholesome or unwholesome…’
“…và nếu tôi trả lời: ‘Đây là thiện’ hoặc ‘Đây là bất thiện’, thời dục, tham, sân hoặc hận sẽ khởi lên nơi tôi.
「…若我答言『此是善』或『此是不善』,則欲、貪、瞋、恨或起於我。
“…Ruò wǒ dá yán ‘cǐ shì shàn’ huò ‘cǐ shì bùshàn’, zé yù, tān, chēn, hèn huò qǐ yú wǒ.
“…Nhược ngã đáp ngôn ‘thử thị thiện’ hoặc ‘thử thị bất thiện’, tắc dục, tham, sân, hận hoặc khởi ư ngã.
‘If I answer it is good or bad, desire, greed, anger or hate may arise in me.
Nếu dục, tham, sân hoặc hận khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể bị sai lầm. Nếu tôi sai lầm thì tôi bị phiền muộn. Nếu tôi bị phiền muộn sẽ thành một chướng ngại cho tôi.
若欲貪瞋恨起於我,我則或有錯謬;若有錯謬,我便憂惱;若憂惱,便為我之障礙。
Ruò yù tān chēn hèn qǐ yú wǒ, wǒ zé huò yǒu cuòmìu; ruò yǒu cuòmìu, wǒ biàn yōunǎo; ruò yōunǎo, biàn wéi wǒ zhī zhàng’ài.
Nhược dục tham sân hận khởi ư ngã, ngã tắc hoặc hữu thác muội; nhược hữu thác muội, ngã tiện ưu não; nhược ưu não, tiện vi ngã chi chướng ngại.
If such defilements arise, I might be wrong, then troubled, and that would obstruct me.
Như vậy, vì sợ sai lầm, vì chán ghét sai lầm, nên vị ấy không trả lời: ‘Đây là thiện’, cũng không trả lời: ‘Đây là bất thiện’.
如是因畏錯謬、厭惡錯謬,乃不答言「此善」,亦不答言「此不善」。
Rúshì yīn wèi cuòmìu, yànwù cuòmìu, nǎi bù dá yán “cǐ shàn”, yì bù dá yán “cǐ bùshàn”.
Như thị nhân úy thác muội, yếm ố thác muội, nãi bất đáp ngôn “thử thiện”, diệc bất đáp ngôn “thử bất thiện”.
Thus, fearing and loathing error, he will not say ‘this is good’ or ‘this is bad’.
Khi hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn:
「當彼被問此事、彼事時,便以鱔鰻之辯而滑脫言說:
“Dāng bǐ bèi wèn cǐ shì, bǐ shì shí, biàn yǐ shàn mán zhī biàn ér huátuō yánshuō:
Đương bỉ bị vấn thử sự, bỉ sự thời, tiện dĩ thiện man chi biện nhi hoạt thoát ngôn thuyết:
When questioned, he wriggles out with eel-like speech:
‘Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế’.”
『我不說是如是,亦不說是如彼;不說異於如是,不說非如是,不說非非如是。』」
“Wǒ bù shuō shì rúshì, yì bù shuō shì rú bǐ; bù shuō yì yú rúshì, bù shuō fēi rúshì, bù shuō fēi fēi rúshì.”
“Ngã bất thuyết thị như thị, diệc bất thuyết thị như bỉ; bất thuyết dị ư như thị, bất thuyết phi như thị, bất thuyết phi phi như thị.”
‘I do not say it is so; I do not say it is otherwise; I do not say it is both; I do not say it is neither.’
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ HAI – SỢ CHẤP THỦ → LƯƠN LẸO
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất…
諸比丘,此為第一種依此之故而立謬辯者。
Zhū bǐqiū, cǐ wéi dì-yī zhǒng yī cǐ zhī gù ér lì miùbiàn zhě.
Chư Tỷ-kheo, thử vi đệ nhất chủng y thử chi cố nhi lập ngụy biện giả.
This is the first case of eel-wriggling.
⸻
1️⃣ Mở đề – Trường hợp thứ hai
Trường hợp thứ hai… Sa-môn, Bà-la-môn y chỉ gì mà dùng lời lươn lẹo trườn uốn?
第二種:復有沙門、婆羅門依何所據而用鱔鰻之辯?
Dì-èr zhǒng: fù yǒu shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù ér yòng shànmán zhī biàn?
Đệ nhị chủng: phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi dụng thiện-man chi biện?
What is the second ground for eel-wriggling equivocation?
⸻
2️⃣ Không biết thiện–bất thiện → sợ CHẤP THỦ
Ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không như thật biết “đây là thiện”, không như thật biết “đây là bất thiện”.
此中有沙門、婆羅門不如實知「此善」、「此不善」。
Cǐ zhōng yǒu shāmén, Póluómén bù rúshí zhī “cǐ shàn”, “cǐ bùshàn”.
Thử trung hữu Sa-môn, Bà-la-môn bất như thật tri “thử thiện”, “thử bất thiện”.
Here someone does not truly know what is good or bad.
Vị ấy nghĩ: Tôi không như thật biết…
彼作是念:我不如實知…
Bǐ zuò shì niàn: wǒ bù rúshí zhī…
Bỉ tác thị niệm: ngã bất như thật tri…
He thinks: “I do not truly know…”
Và nếu tôi trả lời thiện hay bất thiện, dục–tham–sân–hận sẽ khởi lên nơi tôi.
若我答善或不善,欲貪瞋恨或起於我。
Ruò wǒ dá shàn huò bùshàn, yù tān chēnhèn huò qǐ yú wǒ.
Nhược ngã đáp thiện hoặc bất thiện, dục tham sân hận hoặc khởi ư ngã.
If I declare good or bad, desire or anger may arise.
Nếu dục tham sân hận khởi, tôi có thể chấp thủ.
若彼起時,我便或有執取。
Ruò bǐ qǐ shí, wǒ biàn huò yǒu zhíqǔ.
Nhược bị khởi thời, ngã tiện hoặc hữu chấp thủ.
If that arises, I may cling.
Nếu chấp thủ → phiền muộn → chướng ngại.
若執取,我則憂惱;憂惱便成障礙。
Ruò zhíqǔ, wǒ zé yōunǎo; yōunǎo biàn chéng zhàng’ài.
Nhược chấp thủ, ngã tắc ưu não; ưu não tiện thành chướng ngại.
Clinging leads to distress and obstruction.
⸻
3️⃣ Kết quả → lươn lẹo 5 câu
Vì sợ chấp thủ, chán ghét chấp thủ, nên không nói “thiện” hay “bất thiện”.
由畏執取、厭執取,故不言善、不言不善。
Yóu wèi zhíqǔ, yàn zhíqǔ, gù bù yán shàn, bù yán bùshàn.
Do úy chấp thủ, yếm chấp thủ, cố bất ngôn thiện, bất ngôn bất thiện.
Out of fear of clinging, he refuses to answer.
Khi bị hỏi, vị ấy nói:
當被問時,乃作此滑脫之言:
Dāng bèi wèn shí, nǎi zuò cǐ huátuō zhī yán:
Đương bị vấn thời, nãi tác thử hoạt thoát chi ngôn:
When questioned he wriggles:
“Tôi không nói là như vậy.
Tôi không nói là như kia.
Tôi không nói là khác như thế.
Tôi không nói là không phải như thế.
Tôi không nói là không không phải như thế.”
「我不說如是;不說如彼;不說異於如是;不說非如是;不說非非如是。」
“Wǒ bù shuō rúshì; bù shuō rú bǐ; bù shuō yì yú rúshì; bù shuō fēi rúshì; bù shuō fēi fēi rúshì.”
Ngã bất thuyết như thị; bất thuyết như bỉ; bất thuyết dị ư như thị; bất thuyết phi như thị; bất thuyết phi phi như thị.
He evades: “I don’t say so; not otherwise; not different; not not so.”
Đó là trường hợp thứ hai.
此為第二種謬辯。
Cǐ wéi dì-èr zhǒng miùbiàn.
Thử vi đệ nhị chủng ngụy biện.
This is the second case.
⸻
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ BA – SỢ BỊ CHẤT VẤN / SỢ NGƯỜI BIỆN LUẬN GIỎI
1️⃣ Mở đề
Trường hợp thứ ba, lại có Sa-môn, Bà-la-môn…
第三種:復有沙門、婆羅門…
Dì-sān zhǒng: fù yǒu shāmén, Póluómén…
Đệ tam chủng: phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn…
The third case:
⸻
2️⃣ Không biết thiện / bất thiện → sợ người tài biện luận bắt bẻ
Vị ấy không như thật biết “đây là thiện”, không như thật biết “đây là bất thiện”.
彼不如實知「此善」、「此不善」。
Bǐ bù rúshí zhī “cǐ shàn”, “cǐ bùshàn”.
Bỉ bất như thật tri “thử thiện”, “thử bất thiện”.
He does not truly know good or bad.
Vị ấy nghĩ:
彼作是念:
Bǐ zuò shì niàn:
Bỉ tác thị niệm:
He thinks:
Nếu tôi nói thiện hay bất thiện, có những Sa-môn, Bà-la-môn bác học, tế nhị, biện tài… có thể chất vấn tôi.
若我言善或不善,有諸博學、巧辯之沙門婆羅門,能難詰我。
Ruò wǒ yán shàn huò bùshàn, yǒu zhū bóxué qiǎobiàn zhī shāmén Póluómén néng nánjí wǒ.
Nhược ngã ngôn thiện hoặc bất thiện, hữu chư bác học xảo biện chi Sa-môn Bà-la-môn năng nan kích ngã.
If I answer, learned and sharp debaters may challenge me.
Nếu họ chất vấn mà tôi không giải đáp được → tôi phiền muộn → thành chướng ngại.
若不能答,則我憂惱;憂惱成為障礙。
Ruò bùnéng dá, zé wǒ yōunǎo; yōunǎo chéngwéi zhàng’ài.
Nhược bất năng đáp, tắc ngã ưu não; ưu não thành vi chướng ngại.
If I cannot reply, distress will obstruct me.
⸻
3️⃣ Giải pháp của ông → LƯƠN LẸO 5 CÂU
Vì sợ thử thách, vì chán ghét thử thách, nên không đáp thiện hay bất thiện.
由畏試難、厭試難,故不答善、不答不善。
Yóu wèi shìnán, yàn shìnán, gù bù dá shàn, bù dá bùshàn.
Do úy thí nan, yếm thí nan, cố bất đáp thiện, bất đáp bất thiện.
Out of fear of debate, he refuses to answer.
Khi bị hỏi, lại dùng lời lươn lẹo:
當被問時,又作鱔鰻之辯:
Dāng bèi wèn shí, yòu zuò shànmán zhī biàn:
Đương bị vấn thời, hựu tác thiện-man chi biện:
When questioned, he again wriggles:
“Tôi không nói là như vậy… không nói là không không phải như thế.”
「我不說如是;不說如彼;不說異於如是;不說非如是;不說非非如是。」
“Wǒ bù shuō rúshì; bù shuō rú bǐ; bù shuō yì yú rúshì; bù shuō fēi rúshì; bù shuō fēi fēi rúshì.”
Ngã bất thuyết như thị; bất thuyết như bỉ; bất thuyết dị ư như thị; bất thuyết phi như thị; bất thuyết phi phi như thị.
He repeats the fivefold evasive formulas.
Đó là trường hợp thứ ba.
此為第三種謬辯。
Cǐ wéi dì-sān zhǒng miùbiàn.
Thử vi đệ tam chủng ngụy biện.
This is the third case.
Trường hợp thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn?
第四種情況:更有沙門、婆羅門依何所據,而立謬辯之論,於彼此諸問中,以鱔鰻之辯而滑脫其語?
Dì-sì zhǒng qíngkuàng: gèng yǒu shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, ér lì miùbiàn zhī lùn, yú bǐcǐ zhū wèn zhōng, yǐ shànmán zhī biàn ér huátuō qí yǔ?
Đệ tứ chủng tình huống: cánh hữu Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi lập ngụy biện chi luận, ư bỉ thử chư vấn trung, dĩ thiện-man chi biện nhi hoạt thoát kỳ ngữ?
The fourth case: on what basis do some resort to eel-wriggling speech?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn đần độn ngu si.
諸比丘,此中有沙門、婆羅門愚癡闇鈍。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén, Póluómén yúchī àndùn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn, Bà-la-môn ngu si ám độn.
Here, bhikkhus, there is a dull and foolish ascetic or Brahmin.
Vị này, vì đần độn ngu si, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác, liền dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn:
彼由愚癡闇鈍,於此事彼事被人所問,即以鱔鰻滑脫之辯而答。
Bǐ yóu yúchī àndùn, yú cǐ shì bǐ shì bèi rén suǒ wèn, jí yǐ shànmán huátuō zhī biàn ér dá.
Bỉ do ngu si ám độn, ư thử sự bỉ sự bị nhân sở vấn, tức dĩ thiện-man hoạt thoát chi biện nhi đáp.
Because of his stupidity, whenever questioned he wriggles with eel-like evasions.
⸻
🔹 Ví dụ: câu hỏi về “thế giới khác”
“Anh hỏi tôi có một thế giới khác hay không?
『汝問我:有他世與否?』
“Rǔ wèn wǒ: yǒu tāshì yǔ fǒu?”
“Nhữ vấn ngã: hữu tha thế dữ phủ?”
‘You ask me: Is there another world or not?’
Nếu tôi nghĩ: ‘Có một thế giới khác’, tôi có thể trả lời với anh: ‘Có một thế giới khác’.
若我心念:『有他世』,我亦能答汝:『有他世。』
Ruò wǒ xīnniàn: ‘yǒu tāshì’, wǒ yì néng dá rǔ: ‘yǒu tāshì.’
Nhược ngã tâm niệm: ‘hữu tha thế’, ngã diệc năng đáp nhữ: ‘hữu tha thế.’
If I thought there is another world, I could say so.
Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế.
然我不說如是,不說如彼,不說異於如是,不說非如是,不說非非如是。
Rán wǒ bù shuō rúshì, bù shuō rú bǐ, bù shuō yì yú rúshì, bù shuō fēi rúshì, bù shuō fēi fēi rúshì.
Nhiên ngã bất thuyết như thị, bất thuyết như bỉ, bất thuyết dị ư như thị, bất thuyết phi như thị, bất thuyết phi phi như thị.
Yet I say neither so, nor otherwise, nor different, nor not so, nor not-not so.
⸻
🔹 Biến thể phủ định và cả bốn loại vấn đáp
Nếu anh hỏi tôi: “Không có một thế giới khác phải không?”
若汝復問:『無他世耶?』
Ruò rǔ fù wèn: ‘wú tāshì yé?’
Nhược nhữ phục vấn: ‘vô tha thế da?’
If you ask: ‘Is there no other world?’
Nếu tôi nghĩ: ‘Không có một thế giới khác’, tôi có thể trả lời với anh: ‘Không có một thế giới khác’.
若我心念:『無他世』,我亦能答汝:『無他世。』
Ruò wǒ xīnniàn: ‘wú tāshì’, wǒ yì néng dá rǔ: ‘wú tāshì.’
Nhược ngã tâm niệm: ‘vô tha thế’, ngã diệc năng đáp nhữ: ‘vô tha thế.’
If I thought there is no other world, I could say so.
Nhưng vẫn: tôi không nói là như vậy, không nói là như kia, không nói là khác như thế, không nói là không phải như thế, không nói là không không phải như thế.
然猶不說如是,不說如彼,不說異於如是,不說非如是,不說非非如是。
Rán yóu bù shuō rúshì, bù shuō rú bǐ, bù shuō yì yú rúshì, bù shuō fēi rúshì, bù shuō fēi fēi rúshì.
Nhiên do bất thuyết như thị, bất thuyết như bỉ, bất thuyết dị ư như thị, bất thuyết phi như thị, bất thuyết phi phi như thị.
Yet still I refuse all five ways of stating it.
⸻
🔹 Gom lại tất cả các câu hỏi khác (giữ đúng ý kinh)
Nếu anh hỏi tôi về các vấn đề như:
「有無他世?亦有亦無他世?亦非有亦非無他世?
有無化生有情?有無善惡業之異熟果?
如來死後有存在?無存在?亦有亦無?亦非有亦非無?」
Ruò rǔ yòu wèn yú zhū shì:
“Yǒu wú tāshì? Yì yǒu yì wú tāshì? Yì fēi yǒu yì fēi wú tāshì?
Yǒu wú huàshēng yǒuqíng? Yǒu wú shàn’è yè zhī yìshú guǒ?
Rúlái sǐ hòu yǒu cúnzài? Wú cúnzài? Yì yǒu yì wú? Yì fēi yǒu yì fēi wú?”
Nhược nhữ hựu vấn ư chư sự:
“hữu vô tha thế? diệc hữu diệc vô tha thế? diệc phi hữu diệc phi vô tha thế?
hữu vô hóa sanh hữu tình? hữu vô thiện ác nghiệp chi dị thục quả?
Như Lai tử hậu hữu tồn tại? vô tồn tại? diệc hữu diệc vô? diệc phi hữu diệc phi vô?”
If you ask me about: another world (exists/does not/both/neither), spontaneously arisen beings, results of good and bad kamma, or the Tathāgata’s existence after death (yes/no/both/neither)…
Dầu tôi có nghĩ theo bất cứ phương án nào trong bốn câu hỏi ấy, tôi vẫn có thể trả lời “có / không / cũng có cũng không / cũng không có cũng không không có”.
縱我於四句之中心傾一邊,我亦能隨其句而答「有」、「無」、「亦有亦無」、「亦非有亦非無」。
Zòng wǒ yú sìjù zhī zhōng xīn qīng yībiān, wǒ yì néng suí qí jù ér dá “yǒu”, “wú”, “yì yǒu yì wú”, “yì fēi yǒu yì fēi wú”.
Túng ngã ư tứ cú chi trung tâm khuynh nhất biên, ngã diệc năng tùy kỳ cú nhi đáp “hữu”, “vô”, “diệc hữu diệc vô”, “diệc phi hữu diệc phi vô”.
Even if my mind leans to one of the four positions, I could answer in any of the four ways.
Nhưng tôi vẫn không nói là như vậy, không nói là như kia, không nói là khác như thế, không nói là không phải như thế, không nói là không không phải như thế.
然我終不說如是、不說如彼、不說異於如是、不說非如是、不說非非如是。
Rán wǒ zhōng bù shuō rúshì, bù shuō rú bǐ, bù shuō yì yú rúshì, bù shuō fēi rúshì, bù shuō fēi fēi rúshì.
Nhiên ngã chung bất thuyết như thị, bất thuyết như bỉ, bất thuyết dị ư như thị, bất thuyết phi như thị, bất thuyết phi phi như thị.
Yet I still deny all five formulations and refuse to take any stand.
⸻
🔹 Câu cuối – kết trường hợp thứ tư
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ tư, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.
諸比丘,是為第四種依此因緣而立謬辯:於彼此諸問中,以鱔鰻之辯而滑脫應答。
Zhū bǐqiū, shì wéi dì-sì zhǒng yī cǐ yīnyuán ér lì miùbiàn: yú bǐcǐ zhū wèn zhōng, yǐ shànmán zhī biàn ér huátuō yìngdá.
Chư Tỷ-kheo, thị vi đệ tứ chủng y thử nhân duyên nhi lập ngụy biện: ư bỉ thử chư vấn trung, dĩ thiện-man chi biện nhi hoạt thoát ứng đáp.
This is the fourth way some cling to eel-wriggling equivocation.
⭐ KẾT THÚC NGỤY BIỆN LUẬN – CHUYỂN SANG VÔ NHÂN LUẬN
1️⃣ Tổng kết bốn loại Ngụy biện luận
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận. Khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác, dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp.
諸比丘,凡諸沙門、婆羅門立謬辯論者,於種種所問,皆以鱔鰻之辯滑脫其語。
Zhū bǐqiū, fán zhū shāmén, Póluómén lì miùbiàn lùn zhě, yú zhǒngzhǒng suǒ wèn, jiē yǐ shànmán zhī biàn huátuō qí yǔ.
Chư Tỷ-kheo, phàm chư Sa-môn, Bà-la-môn lập ngụy biện luận giả, ư chủng chủng sở vấn, giai dĩ thiện-man chi biện hoạt thoát kỳ ngữ.
Such ascetics evade all questions using eel-wriggling speech.
Nếu họ chủ trương Ngụy biện luận… họ sẽ chấp cả bốn luận chấp trên hay một trong bốn, ngoài ra không có luận chấp khác.
若其立謬辯,或執四句,或執其一,更無餘論。
Ruò qí lì miùbiàn, huò zhí sìjù, huò zhí qí yī, gèng wú yúlùn.
Nhược kỳ lập ngụy biện, hoặc chấp tứ cú, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô dư luận.
They hold to one or all of the four evasive positions, and no others.
⸻
2️⃣ Như Lai vượt ngoài mọi sở kiến
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy… sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy.”
諸比丘,如來智見:此諸見取,如是執著,當致彼趣,成此宿命。
Zhū bǐqiū, Rúlái zhìjiàn: cǐ zhū jiànqǔ, rúshì zhízhuó, dāng zhì bǐ qù, chéng cǐ sùmìng.
Chư Tỷ-kheo, Như Lai trí kiến: thử chư kiến thủ, như thị chấp trước, đương trí bỉ thú, thành thử túc mệnh.
The Tathāgata sees where such views lead and how they bind beings.
Ngài không chấp trước sở tri ấy; nội tâm tịch tịnh; tuệ tri tập khởi, diệt trừ, vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của các thọ.
不取於彼,內心寂靜,真實智見諸受之集、滅、甘露、危險與出離。
Bù qǔ yú bǐ, nèixīn jìjìng, zhēnshí zhìjiàn zhū shòu zhī jí, miè, gānlù, wēixiǎn yǔ chūlí.
Bất thủ ư bỉ, nội tâm tịch tịnh, chân thật trí kiến chư thọ chi tập, diệt, cam lộ, nguy hiểm dữ xuất ly.
He does not cling; he knows the arising, ending, sweetness, danger, and escape of sensations.
Nhờ vậy Như Lai giải thoát hoàn toàn, không chấp thủ.
是故如來究竟解脫,無復執著。
Shì gù Rúlái jiùjìng jiětuō, wú fù zhízhuó.
Thị cố Như Lai cứu cánh giải thoát, vô phục chấp trước.
Thus the Tathāgata is fully liberated, free from clinging.
⸻
3️⃣ Những pháp sâu kín
Những pháp ấy… sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài luận lý suông, chỉ người trí mới phân biệt.
此諸法甚深難見難證,寂靜妙好,超越戲論,唯智者能辨。
Cǐ zhū fǎ shènshēn nán jiàn nán zhèng, jìjìng miàohǎo, chāoyuè xìlùn, wéi zhìzhě néng biàn.
Thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu hảo, siêu việt hí luận, duy trí giả năng biện.
These dhammas are subtle, peaceful, profound, beyond mere reasoning, known only to the wise.
Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết.
如來自證、自覺而宣說。
Rúlái zì zhèng, zì jué ér xuānshuō.
Như Lai tự chứng, tự giác nhi tuyên thuyết.
The Tathāgata realizes and expounds them.
⸻
⭐ VÔ NHÂN LUẬN
4️⃣ Khởi đầu: hai loại Vô nhân luận
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh với hai luận chấp.
諸比丘,有沙門、婆羅門立無因論,謂我與世間皆無因自生,有二種執著。
Zhū bǐqiū, yǒu shāmén, Póluómén lì wúyīn lùn, wèi wǒ yǔ shìjiān jiē wúyīn zìshēng, yǒu èr zhǒng zhízhuó.
Chư Tỷ-kheo, hữu Sa-môn, Bà-la-môn lập vô nhân luận, vị ngã dữ thế gian giai vô nhân tự sanh, hữu nhị chủng chấp trước.
Some claim self and world arise without cause, with two kinds of doctrine.
⸻
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ NHẤT – TỪ CÕI VÔ TƯỞNG
Này các Tỷ-kheo, có những chư Thiên gọi là Vô tưởng hữu tình…
諸比丘,有天名無想有情……
Zhū bǐqiū, yǒu tiān míng wúxiǎng yǒuqíng…
Chư Tỷ-kheo, hữu Thiên danh Vô tưởng hữu tình…
There are gods called “Unconscious Beings”…
Khi một tưởng niệm khởi lên, họ thác sanh; một hữu tình từ đó sinh đến cõi này, xuất gia, nhập định… chỉ nhớ khoảnh khắc tưởng khởi.
彼一念生,即命終;其後生此,出家、得定,但憶彼念生之時。
Bǐ yī niàn shēng, jí mìngzhōng; qí hòu shēng cǐ, chūjiā, dédìng, dàn yì bǐ niàn shēng zhī shí.
Bỉ nhất niệm sanh, tức mệnh chung; kỳ hậu sanh thử, xuất gia, đắc định, đản ức bỉ niệm sanh chi thời.
When one perception arose, they died; reborn here, they recollect only that moment.
Vị ấy nói: “Bản ngã và thế giới do vô nhân sanh. Vì trước không có, nay có.”
彼言:「我與世間無因自生;昔無今有。」
Bǐ yán: “Wǒ yǔ shìjiān wúyīn zìshēng; xī wú jīn yǒu.”
Bỉ ngôn: “Ngã dữ thế gian vô nhân tự sanh; tích vô kim hữu.”
He concludes: “Self and world arise without cause—formerly absent, now present.”
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất…
諸比丘,是為第一種。
Zhū bǐqiū, shì wéi dì-yī zhǒng.
Chư Tỷ-kheo, thị vi đệ nhất chủng.
This is the first form of non-causationism.
⸻
⭐ TRƯỜNG HỢP THỨ HAI – DO SUY LUẬN
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà biện luận, nhà thẩm sát…
諸比丘,此中有沙門、婆羅門,善於辯論審察……
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu shāmén, Póluómén, shànyú biànlùn shěnchá…
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu Sa-môn, Bà-la-môn, thiện ư biện luận thẩm sát…
Here is an ascetic or Brahmin skilled in dialectics.
Do chia chẻ biện bác của suy luận, vị ấy tuyên bố: “Bản ngã và thế giới vô nhân sanh.”
由於析理推辯,遂言:「我與世間皆無因生。」
Yóuyú xīlǐ tuībiàn, suì yán: “Wǒ yǔ shìjiān jiē wúyīn shēng.”
Do ư tích lý thôi biện, toại ngôn: “Ngã dữ thế gian giai vô nhân sanh.”
Reasoning thus, he asserts: “Self and world arise without cause.”
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai.
諸比丘,是為第二種。
Zhū bǐqiū, shì wéi dì-èr zhǒng.
Chư Tỷ-kheo, thị vi đệ nhị chủng.
This is the second form of non-causationism.
⭐ KẾT – VÔ NHÂN LUẬN
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh với hai luận chấp.
諸比丘,諸沙門、婆羅門立無因論,執我與世間皆從無因而生,有二種見。
Zhū bǐqiū, zhū shāmén, Póluómén lì wúyīn lùn, zhí wǒ yǔ shìjiān jiē cóng wúyīn ér shēng, yǒu èr zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, chư Sa-môn, Bà-la-môn lập vô nhân luận, chấp ngã dữ thế gian giai tùng vô nhân nhi sanh, hữu nhị chủng kiến.
Some ascetics assert that self and world arise without cause, in two ways.
Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh, chúng sẽ chấp cả hai luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
若有沙門、婆羅門說我與世間無因自生,或執此二見,或執其中之一,更無餘說。
Ruò yǒu shāmén, Póluómén shuō wǒ yǔ shìjiān wúyīn zìshēng, huò zhí cǐ èr jiàn, huò zhí qízhōng zhī yī, gèng wú yú shuō.
Nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn thuyết ngã dữ thế gian vô nhân tự sanh, hoặc chấp thử nhị kiến, hoặc chấp kỳ trung chi nhất, cánh vô dư thuyết.
Anyone holding non-causation falls within these two views and nothing beyond them.
⸻
⭐ NHƯ LAI VƯỢT NGOÀI TẤT CẢ SỞ KIẾN
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「此諸見,如是執取,如是依止,將導至如是諸趣,成就如是諸命。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Cǐ zhū jiàn, rúshì zhīqǔ, rúshì yīzhǐ, jiāng dǎozhì rúshì zhū qù, chéngjiù rúshì zhū mìng.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Thử chư kiến, như thị chi thủ, như thị y chỉ, tương đạo chí như thị chư thú, thành tựu như thị chư mệnh.”
The Tathāgata sees where such views lead and what destinies they shape.
Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦復更知過此之上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì fù gèng zhī guò cǐ zhī shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc phục cánh tri quá thử chi thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows this and beyond this, yet does not cling to what is known.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
由不執取所知故,內心得寂靜。
Yóu bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Do bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling, his heart is peaceful.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患及於出離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn jí yú chūlí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn cập ư xuất ly.
He truly knows the arising, cessation, gratification, danger and escape of feelings.
Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執著。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhízhuó.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp trước.
Thus the Tathāgata is fully liberated, without grasping.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt.
諸比丘,此諸法甚深難見難證,寂靜妙善,超越戲論,微細惟智者能辨。
Zhū bǐqiū, cǐ zhū fǎ shènshēn nánjiàn nánzhèng, jìjìng miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng biàn.
Chư Tỷ-kheo, thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu thiện, siêu việt hí luận, vi tế duy trí giả năng biện.
These dhammas are deep, subtle and beyond mere logic, discernible only to the wise.
Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết. Và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自覺,而為人宣說;唯如實正讚如來者,乃說是法。
Rúlái zìzhèng zìjué, ér wéirén xuānshuō; wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, nǎi shuō shì fǎ.
Như Lai tự chứng tự giác nhi vi nhân tuyên thuyết; duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thị pháp.
He has realized and taught them; only true praise of the Tathāgata speaks of these.
⸻
⭐ TỔNG KẾT 18 LUẬN CHẤP VỀ QUÁ KHỨ TỐI SƠ
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ, y cứ về quá khứ tối sơ, đề xướng nhiều ý kiến sai khác với mười tám luận chấp trên.
諸比丘,諸沙門、婆羅門於最初過去而作論說,執著最初過去,依止最初過去,於此發起種種異見,即前所說十八種論。
Zhū bǐqiū, zhū shāmén, Póluómén yú zuìchū guòqù ér zuò lùnshuō, zhízhuó zuìchū guòqù, yīzhǐ zuìchū guòqù, yú cǐ fāqǐ zhǒngzhǒng yìjiàn, jí qián suǒ shuō shíbā zhǒng lùn.
Chư Tỷ-kheo, chư Sa-môn, Bà-la-môn ư tối sơ quá khứ nhi tác luận thuyết, chấp trước tối sơ quá khứ, y chỉ tối sơ quá khứ, ư thử phát khởi chủng chủng dị kiến, tức tiền sở thuyết thập bát chủng luận.
Those who speculate about “the first beginning of the past” fall within these eighteen views already described.
Nếu có những Sa-môn hoặc Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ… chúng sẽ chấp cả mười tám luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
若有沙門、婆羅門論說最初過去,必執彼十八見中,或執一種,除此之外更無他論。
Ruò yǒu shāmén, Póluómén lùnshuō zuìchū guòqù, bì zhí bǐ shíbā jiàn zhōng, huò zhí yī zhǒng, chú cǐ zhī wài gèng wú tā lùn.
Nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết tối sơ quá khứ, tất chấp bỉ thập bát kiến trung, hoặc chấp nhất chủng; trừ thử chi ngoại, cánh vô tha luận.
Anyone who speculates about a first beginning of the past is caught in those eighteen, or one of them.
(Đoạn “Như Lai tuệ tri…” lặp lại cùng mẫu như trên, nên mình không viết lại lần nữa cho đỡ dài – ý hoàn toàn giống đoạn ngay trên.)
⸻
⭐ CHUYỂN SANG 44 LUẬN CHẤP VỀ TƯƠNG LAI
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai, đề xướng nhiều ý kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp.
諸比丘,復有沙門、婆羅門於未來而作論說,執著未來,依止未來,發起種種異見,有四十四種論。
Zhū bǐqiū, fù yǒu shāmén, Póluómén yú wèilái ér zuò lùnshuō, zhízhuó wèilái, yīzhǐ wèilái, fāqǐ zhǒngzhǒng yìjiàn, yǒu sìshísì zhǒng lùn.
Chư Tỷ-kheo, phục hữu Sa-môn, Bà-la-môn ư vị lai nhi tác luận thuyết, chấp trước vị lai, y chỉ vị lai, phát khởi chủng chủng dị kiến, hữu tứ thập tứ chủng luận.
Some base themselves on the future and proclaim forty-four speculative views.
Và những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai đề xướng nhiều ý kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,於未來立此四十四種見耶?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, yú wèilái lì cǐ sìshísì zhǒng jiàn yé?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ, ư vị lai lập thử tứ thập tứ chủng kiến da?
On what are they relying when they spin these forty-four future views?
⸻
⭐ NHÓM 1 TRONG 44 – HỮU TƯỞNG SAU KHI CHẾT (16 LUẬN CHẤP)
Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương hữu tưởng sau khi chết, chấp bản ngã có tưởng sau khi chết với mười sáu luận chấp.
諸比丘,有沙門、婆羅門立死後有想之論,謂我死後猶有想覺,有十六種見。
Zhū bǐqiū, yǒu shāmén, Póluómén lì sǐhòu yǒu xiǎng zhī lùn, wèi wǒ sǐhòu yóu yǒu xiǎngjué, yǒu shíliù zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, hữu Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu hữu tưởng chi luận, vị ngã tử hậu do hữu tưởng giác, hữu thập lục chủng kiến.
Some assert that after death the self still has perception, in sixteen ways.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hữu tưởng luận sau khi chết, với mười sáu luận chấp?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,而立此死後有想之十六論耶?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, ér lì cǐ sǐhòu yǒu xiǎng zhī shíliù lùn yé?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi lập thử tử hậu hữu tưởng chi thập lục luận da?
On what basis do they propose these sixteen ‘perception-after-death’ views?
⸻
⭐ LIỆT KÊ CÁC KIỂU “BẢN NGÃ SAU KHI CHẾT”
Những vị này chủ trương: “Bản ngã có sắc, không có bệnh, sau khi chết có tưởng”.
彼等說:「我有色無病,死後猶有想。」
Bǐ děng shuō: “Wǒ yǒu sè wú bìng, sǐhòu yóu yǒu xiǎng.”
Bỉ đẳng thuyết: “Ngã hữu sắc vô bệnh, tử hậu do hữu tưởng.”
They say: “The self is material, healthy, and has perception after death.”
Chúng chủ trương: “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc …”
又言:「我有色亦無色……」
Yòu yán: “Wǒ yǒu sè yì wú sè……”
Hựu ngôn: “Ngã hữu sắc diệc vô sắc……”
Or: “The self both has form and is formless…”
“Bản ngã cũng không có sắc và cũng không không có sắc …”
「我非有色,亦非無色……」
“Wǒ fēi yǒu sè, yì fēi wú sè……”
“Ngã phi hữu sắc, diệc phi vô sắc……”
Or: “The self is neither with form nor without form…”
“Bản ngã là hữu biên …” – “Bản ngã là vô biên …”
「我有限……我無限……」
“Wǒ yǒuxiàn…… wǒ wúxiàn……”
“Ngã hữu hạn…… ngã vô hạn……”
“The self is finite… or infinite…”
“Bản ngã là hữu biên và vô biên”, “Bản ngã cũng không hữu biên và cũng không vô biên …”
「我亦有限亦無限,我非有限亦非無限……」
“Wǒ yì yǒuxiàn yì wúxiàn, wǒ fēi yǒuxiàn yì fēi wúxiàn……”
“Ngã diệc hữu hạn diệc vô hạn, ngã phi hữu hạn diệc phi vô hạn……”
“The self is both finite and infinite, or neither finite nor infinite.”
“Bản ngã là nhất tưởng …” – “Bản ngã là dị tưởng …”
「我一想……我多想……」
“Wǒ yī xiǎng…… wǒ duō xiǎng……”
“Ngã nhất tưởng…… ngã dị tưởng……”
“The self has a single perception… or manifold perceptions.”
“Bản ngã là thiểu tưởng …” – “Bản ngã là vô lượng tưởng …”
「我少想……我無量想……」
“Wǒ shǎo xiǎng…… wǒ wúliàng xiǎng……”
“Ngã thiểu tưởng…… ngã vô lượng tưởng……”
“The self has few perceptions… or limitless perceptions.”
“Bản ngã là thuần lạc …”, “Bản ngã là thuần khổ …”, “Bản ngã là khổ lạc”.
「我純樂……我純苦……我苦樂雜然。」
“Wǒ chún lè…… wǒ chún kǔ…… wǒ kǔ-lè zá rán.”
“Ngã thuần lạc…… ngã thuần khổ…… ngã khổ lạc tạp nhiên.”
“The self is pure pleasure, or pure pain, or mixed pleasure-and-pain.”
Chúng chủ trương: “Bản ngã là không khổ không lạc, không có bệnh, sau khi chết có tưởng”.
復言:「我非苦非樂,無病清淨,死後猶有想。」
Fù yán: “Wǒ fēi kǔ fēi lè, wú bìng qīngjìng, sǐhòu yóu yǒu xiǎng.”
Phục ngôn: “Ngã phi khổ phi lạc, vô bệnh thanh tịnh, tử hậu do hữu tưởng.”
They even say: “The self is neither pain nor pleasure, healthy and pure, yet still has perception after death.”
⭐ KẾT THÚC NHÓM “HỮU TƯỞNG SAU KHI CHẾT” (16 LUẬN CHẤP)
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương hữu tưởng sau khi chết, chấp bản ngã có tưởng sau khi chết với mười sáu luận chấp.
諸比丘,彼諸沙門、婆羅門立死後有想之論,執我死後猶有想,共成十六種見。
Zhū bǐqiū, bǐ zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu yǒuxiǎng zhī lùn, zhí wǒ sǐhòu yóu yǒu xiǎng, gòng chéng shíliù zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, bỉ chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu hữu tưởng chi luận, chấp ngã tử hậu do hữu tưởng, cộng thành thập lục chủng kiến.
These ascetics hold sixteen doctrines asserting perception after death.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn này chủ trương Hữu tưởng luận sau khi chết, chúng sẽ chấp cả mười sáu luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
諸比丘,凡立此死後有想者,或執十六見,或執其一,更無他說。
Zhū bǐqiū, fán lì cǐ sǐhòu yǒuxiǎng zhě, huò zhí shíliù jiàn, huò zhí qí yī, gèng wú tā shuō.
Chư Tỷ-kheo, phàm lập thử tử hậu hữu tưởng giả, hoặc chấp thập lục kiến, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô tha thuyết.
They adhere to all sixteen or one of them, and nothing beyond these views.
⸻
⭐ NHƯ LAI VƯỢT NGOÀI MỌI LOẠI KIẾN CHẤP
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「諸見如是執取,當導彼趣,成就彼命。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Zhū jiàn rúshì zhīqǔ, dāng dǎo bǐ qù, chéngjiù bǐ mìng.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Chư kiến như thị chi thủ, đương đạo bỉ thú, thành tựu bỉ mệnh.”
The Tathāgata knows how such views lead beings to specific destinies.
Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦更知其上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì gèng zhī qí shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc cánh tri kỳ thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows thus and knows beyond thus, yet does not cling to knowing.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
以不執取所知故,內心得寂靜。
Yǐ bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Dĩ bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling, his mind remains utterly peaceful.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患及出離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn jí chūlí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn cập xuất ly.
He truly understands the arising, cessation, attraction, danger, and escape from feelings.
Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執取。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhíqǔ.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp thủ.
Thus, by such knowledge, he is completely liberated without grasping.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt.
諸比丘,此諸法甚深難見難證,寂靜妙善,超越戲論,唯智者能辨。
Zhū bǐqiū, cǐ zhū fǎ shènshēn nánjiàn nánzhèng, jìjìng miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wéi zhìzhě néng biàn.
Chư Tỷ-kheo, thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu thiện, siêu việt hí luận, duy trí giả năng biện.
These truths are deep, subtle, sublime, beyond logic, discernible only by the wise.
Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết. Và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自悟而宣說;唯如實正讚如來者,乃說此法。
Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō; wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, nǎi shuō cǐ fǎ.
Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết; duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thử pháp.
The Tathāgata realized these and proclaimed them; only true praise of him mentions these teachings.
Tụng phẩm thứ ba
第三頌品
Dì-sān sòng pǐn
Đệ tam tụng phẩm
Third recitation section.
⸻
⭐ Vô tưởng luận sau khi chết (8 luận chấp)
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立死後無想之論,執我死後無想,共成八種見。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu wúxiǎng zhī lùn, zhí wǒ sǐhòu wú xiǎng, gòng chéng bā zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu vô tưởng chi luận, chấp ngã tử hậu vô tưởng, cộng thành bát chủng kiến.
Some assert that after death the self has no perception, in eight ways.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,立此死後無想之八種見耶?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, lì cǐ sǐhòu wúxiǎng zhī bā zhǒng jiàn yé?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ, lập thử tử hậu vô tưởng chi bát chủng kiến da?
On what basis do they adopt these eight “no-perception-after-death” views?
⸻
🔹 Liệt kê 8 luận chấp Vô tưởng
Những vị này chủ trương: “Bản ngã có sắc, không có bệnh, sau khi chết không có tưởng”.
彼等言:「我有色無病,死後無想。」
Bǐ děng yán: “Wǒ yǒusè wú bìng, sǐhòu wú xiǎng.”
Bỉ đẳng ngôn: “Ngã hữu sắc vô bệnh, tử hậu vô tưởng.”
They say: “The self has form, is healthy, and has no perception after death.”
“Bản ngã không có sắc … ”
「我無色,死後無想……」
“Wǒ wú sè, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã vô sắc, tử hậu vô tưởng……”
Or: “The self is formless and has no perception after death…”
“Bản ngã có sắc và cũng không có sắc … ”
「我有色亦無色,死後無想……」
“Wǒ yǒusè yì wú sè, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã hữu sắc diệc vô sắc, tử hậu vô tưởng……”
Or: “The self both has form and is formless, yet has no perception after death…”
“Bản ngã không có sắc và cũng không không có sắc … ”
「我非有色亦非無色,死後無想……」
“Wǒ fēi yǒusè yì fēi wú sè, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã phi hữu sắc diệc phi vô sắc, tử hậu vô tưởng……”
Or: “The self is neither with form nor without form, and has no perception after death…”
“Là hữu biên … ”
「我有限,死後無想……」
“Wǒ yǒuxiàn, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã hữu hạn, tử hậu vô tưởng……”
Finite, without perception after death.
“Là vô biên … ”
「我無限,死後無想……」
“Wǒ wúxiàn, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã vô hạn, tử hậu vô tưởng……”
Infinite, without perception after death.
“Là hữu biên và vô biên … ”
「我亦有限亦無限,死後無想……」
“Wǒ yì yǒuxiàn yì wúxiàn, sǐhòu wú xiǎng……”
“Ngã diệc hữu hạn diệc vô hạn, tử hậu vô tưởng……”
Both finite and infinite, without perception after death.
Các vị này chấp bản ngã là phi hữu biên và phi vô biên, không có bệnh, sau khi chết không có tưởng.
復言我非有限亦非無限,無病清淨,死後無想。
Fù yán wǒ fēi yǒuxiàn yì fēi wúxiàn, wú bìng qīngjìng, sǐhòu wú xiǎng.
Phục ngôn ngã phi hữu hạn diệc phi vô hạn, vô bệnh thanh tịnh, tử hậu vô tưởng.
They even say: “The self is neither finite nor infinite, healthy, and without perception after death.”
⸻
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp.
諸比丘,是諸沙門、婆羅門立死後無想論者,皆依此八種見。
Zhū bǐqiū, shì zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu wúxiǎng lùn zhě, jiē yī cǐ bā zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, thị chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu vô tưởng luận giả, giai y thử bát chủng kiến.
All their ‘no-perception-after-death’ theories fall within these eight.
Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
諸比丘,若有沙門、婆羅門說我死後無想,或執八見,或執其一,更無餘論。
Zhū bǐqiū, ruò yǒu shāmén, Póluómén shuō wǒ sǐhòu wú xiǎng, huò zhí bā jiàn, huò zhí qí yī, gèng wú yú lùn.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn thuyết ngã tử hậu vô tưởng, hoặc chấp bát kiến, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô dư luận.
Anyone who holds “no perception after death” is caught in one or more of these eight and nothing beyond them.
⸻
⭐ Như Lai vẫn vượt ngoài tất cả
Này các Tỷ-kheo. Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「諸見如是執取,當導至如是諸趣,成就如是諸命。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Zhū jiàn rúshì zhīqǔ, dāng dǎozhì rúshì zhū qù, chéngjiù rúshì zhū mìng.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Chư kiến như thị chi thủ, đương đạo chí như thị chư thú, thành tựu như thị chư mệnh.”
The Tathāgata sees clearly where each such view leads.
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦更知其上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì gèng zhī qí shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc cánh tri kỳ thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows this and beyond this, but does not cling to knowledge.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
以不執取所知故,內心得寂靜。
Yǐ bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Dĩ bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling, his mind is utterly serene.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患及出離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn jí chūlí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn cập xuất ly.
He truly sees the arising, ceasing, sweetness, danger and escape of feelings.
Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執著。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhízhuó.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp trước.
Thus he is completely liberated, free from grasping.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể nhận biết.
諸比丘,此諸法甚深難見難證,寂靜妙善,超越戲論,微細惟智者能識。
Zhū bǐqiū, cǐ zhū fǎ shènshēn nánjiàn nánzhèng, jìjìng miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng shí.
Chư Tỷ-kheo, thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu thiện, siêu việt hí luận, vi tế duy trí giả năng thức.
These dhammas are deep, peaceful, subtle, beyond mere argument, known only by the wise.
Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自悟而宣說,唯如實正讚如來者,乃說此法。
Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō, wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, nǎi shuō cǐ fǎ.
Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết, duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thử pháp.
He has realized these and taught them; only those who truly praise him speak of such dhammas.
⸻
⭐ Phi hữu tưởng phi vô tưởng sau khi chết (8 luận chấp)
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng với tám luận chấp.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立死後非有想非無想之論,執我死後非有想非無想,有八種見。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng zhī lùn, zhí wǒ sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng, yǒu bā zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng chi luận, chấp ngã tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng, hữu bát chủng kiến.
Some claim that after death the self is neither with perception nor without perception, in eight modes.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng với tám luận chấp?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,立此死後非有想非無想之八種見耶?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, lì cǐ sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng zhī bā zhǒng jiàn yé?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ, lập thử tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng chi bát chủng kiến da?
On what basis do they adopt these eight ‘neither-perception-nor-non-perception’ doctrines?
⸻
🔹 8 luận chấp Phi hữu tưởng phi vô tưởng
Những vị này chấp: “Bản ngã có sắc, không có bệnh, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng … ”
彼等言:「我有色無病,死後非有想非無想……」
Bǐ děng yán: “Wǒ yǒusè wú bìng, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
Bỉ đẳng ngôn: “Ngã hữu sắc vô bệnh, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
They say: “The self has form, healthy, and after death is neither with nor without perception.”
“Bản ngã là vô sắc … ”
「我無色,死後非有想非無想……」
“Wǒ wú sè, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
“Ngã vô sắc, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
Formless, yet in that same ambiguous state.
“Bản ngã có sắc và cũng không có sắc … ”
「我有色亦無色,死後非有想非無想……」
“Wǒ yǒusè yì wú sè, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
“Ngã hữu sắc diệc vô sắc, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
Both with form and formless, neither with perception nor without.
“Bản ngã là phi hữu sắc và cũng phi vô sắc … ”
「我非有色亦非無色,死後非有想非無想……」
“Wǒ fēi yǒusè yì fēi wú sè, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
“Ngã phi hữu sắc diệc phi vô sắc, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
Neither with form nor without, and likewise neither with perception nor without.
“Bản ngã là hữu biên … ” – “Bản ngã là vô biên … ”
「我有限……我無限……死後非有想非無想……」
“Wǒ yǒuxiàn… wǒ wúxiàn… sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
“Ngã hữu hạn… ngã vô hạn… tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
Finite or infinite, yet in the same neither/nor state of perception.
“Bản ngã là hữu biên và vô biên … ”
「我亦有限亦無限,死後非有想非無想……」
“Wǒ yì yǒuxiàn yì wúxiàn, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng……”
“Ngã diệc hữu hạn diệc vô hạn, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng……”
Both finite and infinite, neither with perception nor without.
Những vị này chấp rằng bản ngã là phi hữu biên và cũng phi vô biên, không có bệnh, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng, với tám luận chấp.
復言我非有限亦非無限,無病清淨,死後非有想非無想,以此成八種見。
Fù yán wǒ fēi yǒuxiàn yì fēi wúxiàn, wú bìng qīngjìng, sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng, yǐ cǐ chéng bā zhǒng jiàn.
Phục ngôn ngã phi hữu hạn diệc phi vô hạn, vô bệnh thanh tịnh, tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng, dĩ thử thành bát chủng kiến.
They even say: “The self is neither finite nor infinite, healthy, and after death neither with perception nor without,” forming eight views.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, chủ trương phi hữu tưởng phi vô tưởng, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
諸比丘,若有沙門、婆羅門立死後非有想非無想之論,必執此前八見中,或執一種,更無他論。
Zhū bǐqiū, ruò yǒu shāmén, Póluómén lì sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng zhī lùn, bì zhí cǐ qián bā jiàn zhōng, huò zhí yī zhǒng, gèng wú tā lùn.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng chi luận, tất chấp thử tiền bát kiến trung, hoặc chấp nhất chủng, cánh vô tha luận.
Anyone who asserts “neither-perception-nor-non-perception after death” is confined to these eight, or one of them, and nothing outside them.
⭐ NHƯ LAI – TUỆ TRI & VƯỢT NGOÀI MỌI SỞ KIẾN
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「諸見如是執取,必導至彼諸趣,成就彼諸命。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Zhū jiàn rúshì zhīqǔ, bì dǎozhì bǐ zhū qù, chéngjiù bǐ zhū mìng.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Chư kiến như thị chi thủ, tất đạo chí bỉ chư thú, thành tựu bỉ chư mệnh.”
The Tathāgata knows how such views lead beings to such destinies.
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦更知其上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì gèng zhī qí shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc cánh tri kỳ thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows this and beyond this but clings to none of it.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
以不執取所知故,內心得寂靜。
Yǐ bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Dĩ bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling, his mind is utterly serene.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患及出離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn jí chūlí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn cập xuất ly.
He truly sees the arising, ending, sweetness, danger and escape of sensations.
Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執取。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhízhuó.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp trước.
Thus he is fully liberated, without grasping.
Những pháp ấy… vượt ngoài tầm luận lý suông, tế nhị, chỉ người trí mới phân biệt.
此諸法甚深難見難證,離諸戲論,唯智者能辨。
Cǐ zhū fǎ shènshēn nánjiàn nánzhèng, lí zhū xìlùn, wéi zhìzhě néng biàn.
Thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, ly chư hí luận, duy trí giả năng biện.
These deep, subtle dhammas are beyond speculation, known only to the wise.
Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自悟而宣說;唯如實正讚如來者乃說此法。
Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō; wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě nǎi shuō cǐ fǎ.
Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết; duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thử pháp.
The Tathāgata realized and taught them; only true praise mentions these teachings.
⸻
⭐ 7 LOẠI ĐOẠN DIỆT LUẬN (Ucchedavāda)
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Ðoạn diệt luận… với bảy luận chấp.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立斷滅論,說有情於死後全然斷滅,有七種見。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì duànmiè lùn, shuō yǒuqíng yú sǐhòu quánrán duànmiè, yǒu qī zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập đoạn diệt luận, thuyết hữu tình ư tử hậu toàn nhiên đoạn diệt, hữu thất chủng kiến.
Some propose that beings are utterly destroyed at death, in seven ways.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì…?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,而立此七種斷滅之見?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, ér lì cǐ qī zhǒng duànmiè zhī jiàn?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi lập thử thất chủng đoạn diệt chi kiến?
On what basis do they form these seven annihilationist theories?
⸻
🔹 Loại 1 – “Ngã sắc thân này, hoại là mất hẳn”
“Vì bản ngã này có sắc, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh ra… sau khi chết không còn nữa… hoàn toàn đoạn diệt.”
「此我有色,由四大成,父母所生;身壞命終,更無所有,故我全然斷滅。」
“Cǐ wǒ yǒusè, yóu sìdà chéng, fùmǔ suǒ shēng; shēn huài mìng zhōng, gèng wú suǒ yǒu, gù wǒ quánrán duànmiè.”
“Thử ngã hữu sắc, do tứ đại thành, phụ mẫu sở sanh; thân hoại mệnh chung, cánh vô sở hữu, cố ngã toàn nhiên đoạn diệt.”
They say: “This body-based self ends entirely at death.”
⸻
🔹 Loại 2 – “Còn có bản ngã khác thuộc dục giới — bản ông không biết”
Một vị khác nói:
“Có bản ngã như ông nói… nhưng chưa phải hết.
Còn có một bản ngã khác, có thiên tánh, có sắc, thuộc dục giới, ăn đoàn thực…
bản ông không biết, tôi biết.
Bản ấy khi thân hoại thì hoàn toàn đoạn diệt.”
「復有一我,天性有色,屬欲界,食團食;此汝不知,我則知見。彼身壞命終,全然斷滅。」
“Fù yǒu yī wǒ, tiānxìng yǒusè, shǔ yùjiè, shí tuánshí; cǐ rǔ bù zhī, wǒ zé zhījiàn. Bǐ shēn huài mìng zhōng, quánrán duànmiè.”
“Phục hữu nhất ngã, thiên tánh hữu sắc, thuộc dục giới, thực đoàn thực; thử nhữ bất tri, ngã tắc tri kiến. Bỉ thân hoại mệnh chung, toàn nhiên đoạn diệt.”
They propose a “heavenly embodied self” that ends at death.
⸻
🔹 Loại 3 – “Có bản ngã do ý tạo thành — cũng đoạn diệt”
“Lại có một bản ngã khác…
có sắc, do ý tạo thành, đủ mọi chi tiết tay chân… không thiếu căn nào.
Bản ấy ông không biết, tôi biết.
Bản ấy khi thân hoại, bị hủy nát, sau khi chết không còn nữa — hoàn toàn đoạn diệt.”
「復有一我,由意所成,諸根具足;汝不知見,我則知見。其身壞命終,永無餘存。」
“Fù yǒu yī wǒ, yóu yì suǒ chéng, zhū gēn jùzú; rǔ bù zhījiàn, wǒ zé zhījiàn. Qí shēn huài mìng zhōng, yǒng wú yú cún.”
“Phục hữu nhất ngã, do ý sở thành, chư căn cụ túc; nhữ bất tri kiến, ngã tắc tri kiến. Kỳ thân hoại mệnh chung, vĩnh vô dư tồn.”
They claim a “mind-made body” that is annihilated at death.
⸻
🔹 Loại 4 – “Bản ngã đạt Không vô biên xứ — rồi cũng diệt”
“Lại có bản ngã khác…
vượt ngoài sắc tưởng, diệt trừ các tưởng chống đối, không nhớ các dị tưởng,
nhận hiểu hư không là vô biên, đạt Không vô biên xứ.
Bản ấy ông không biết, tôi biết.
Bản ấy khi thân hoại thì hoàn toàn đoạn diệt.”
「復有一我,超越諸色想,除滅違逆想,不念異想,知虛空無邊,至空無邊處;汝不知我知。其身壞命終,畢竟斷滅。」
“Fù yǒu yī wǒ, chāoyuè zhū sèxiǎng, chúmiè wéinì xiǎng, bù niàn yìxiǎng, zhī xūkōng wúbiān, zhì kōng wúbiān chù; rǔ bù zhī wǒ zhī. Qí shēn huài mìng zhōng, bìjìng duànmiè.”
“Phục hữu nhất ngã, siêu việt chư sắc tưởng, trừ diệt vi nghịch tưởng, bất niệm dị tưởng, tri hư không vô biên, chí Không vô biên xứ; nhữ bất tri ngã tri. Kỳ thân hoại mệnh chung, tất cánh đoạn diệt.”
They say even the self in the realm of Infinite Space ends completely at death.
⸻
🔹 Loại 5 – “Bản ngã đạt Thức vô biên xứ — rồi diệt”
“Lại có bản ngã khác…
vượt ngoài tất cả Không vô biên xứ, nhận biết: ‘Thức là vô biên’,
đạt Thức vô biên xứ.
Bản ấy ông không biết, tôi biết.
Bản ấy khi thân hoại, bị hủy nát… hoàn toàn đoạn diệt.”
「復有一我,超越空無邊處,知識無邊,至識無邊處;汝不知見,我則知見。身壞命終,竟無餘存。」
“Fù yǒu yī wǒ, chāoyuè kōng wúbiān chù, zhī shí wúbiān, zhì shí wúbiān chù; rǔ bù zhījiàn, wǒ zé zhījiàn. Shēn huài mìng zhōng, jìng wú yú cún.”
“Phục hữu nhất ngã, siêu việt Không vô biên xứ, tri Thức vô biên, chí Thức vô biên xứ; nhữ bất tri kiến, ngã tắc tri kiến. Thân hoại mệnh chung, chung vô dư tồn.”
They say even the consciousness-infinite self ends utterly at death.
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế không bị hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một bản ngã khác vượt ngoài tất cả Thức vô biên xứ, nhận hiểu: không có sở hữu. Ðạt đến Vô sở hữu xứ. Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy. Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy. Bản ngã ấy khi thân hoại bị hủy nát, tiêu diệt, sau khi chết không còn nữa, nên bản ngã ấy như thế hoàn toàn đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài hữu tình.
復有一人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但彼此我不為究竟斷滅,更有一我,超越一切識無邊處,了知『彼處無所有』,證至無所有處。此我汝所不知不見,我則知見。彼我身壞命終,敗壞磨滅,死後更無所有,故彼如是全然斷滅。」如是有一部分人立有情斷滅、消失、毀壞之論。
Fù yǒu yī rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn bǐ cǐ wǒ bù wéi jiùjìng duànmiè, gèng yǒu yī wǒ, chāoyuè yīqiè shí wúbiān chù, liǎozhī ‘bǐ chù wú suǒyǒu’, zhèng zhì wúsuǒyǒu chù. Cǐ wǒ rǔ suǒ bù zhī bù jiàn, wǒ zé zhījiàn. Bǐ wǒ shēn huài mìng zhōng, bàihuài mómì, sǐhòu gèng wú suǒyǒu, gù bǐ rúshì quánrán duànmiè.” Rúshì yǒu yībùfèn rén lì yǒuqíng duànmiè, xiāoshī, huǐhuài zhī lùn.
Phục hữu nhất nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn bỉ thử ngã bất vi cứu cánh đoạn diệt, cánh hữu nhất ngã, siêu việt nhất thiết Thức vô biên xứ, liễu tri ‘bỉ xứ vô sở hữu’, chứng chí Vô sở hữu xứ. Thử ngã nhữ sở bất tri bất kiến, ngã tắc tri kiến. Bỉ ngã thân hoại mệnh chung, bại hoại ma diệt, tử hậu cánh vô sở hữu, cố bỉ如 thị toàn nhiên đoạn diệt.” Như thị hữu nhất bộ phận nhân lập hữu tình đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại chi luận.
They posit another self in the realm of Nothingness, which too is utterly annihilated at death.
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế không bị hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một bản ngã khác vượt ngoài tất cả Vô sở hữu xứ, nhận hiểu: Ðây là tịch tịnh, đây là mỹ diệu. Ðạt đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy. Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy. Bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát tiêu diệt, sau khi chết không còn nữa, nên bản ngã ấy như thế hoàn toàn đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài hữu tình.
復有一人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但彼此我不為究竟斷滅,更有一我,超越一切無所有處,了知:『此處寂靜,此處妙善。』證至非想非非想處。此我汝所不知不見,我則知見。彼我身壞命終,敗壞磨滅,死後更無所有,故彼如是全然斷滅。」如是有一部分人立有情斷滅、消失、毀壞之論。
Fù yǒu yī rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn bǐ cǐ wǒ bù wéi jiùjìng duànmiè, gèng yǒu yī wǒ, chāoyuè yīqiè wúsuǒyǒu chù, liǎozhī: ‘Cǐ chù jìjìng, cǐ chù miàoshàn.’ Zhèng zhì fēi xiǎng fēi fēi xiǎng chù. Cǐ wǒ rǔ suǒ bù zhī bù jiàn, wǒ zé zhījiàn. Bǐ wǒ shēn huài mìng zhōng, bàihuài mómì, sǐhòu gèng wú suǒyǒu, gù bǐ rúshì quánrán duànmiè.” Rúshì yǒu yībùfèn rén lì yǒuqíng duànmiè, xiāoshī, huǐhuài zhī lùn.
Phục hữu nhất nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn bỉ thử ngã bất vi cứu cánh đoạn diệt, cánh hữu nhất ngã, siêu việt nhất thiết Vô sở hữu xứ, liễu tri: ‘Thử xứ tịch tịnh, thử xứ diệu thiện.’ Chứng chí Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Thử ngã nhữ sở bất tri bất kiến, ngã tắc tri kiến. Bỉ ngã thân hoại mệnh chung, bại hoại ma diệt, tử hậu cánh vô sở hữu, cố bỉ如 thị toàn nhiên đoạn diệt.” Như thị hữu nhất bộ phận nhân lập hữu tình đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại chi luận.
They claim even the self in Neither-Perception-Nor-Non-Perception realm is annihilated at death.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, chủ trương Ðoạn diệt luận, chấp trước sự đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại của loài hữu tình với bảy luận chấp.
諸比丘,如是諸沙門、婆羅門立斷滅論,執有情斷滅、消亡、毀壞,共成七種見。
Zhū bǐqiū, rúshì zhū shāmén, Póluómén lì duànmiè lùn, zhí yǒuqíng duànmiè, xiāowáng, huǐhuài, gòng chéng qī zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, như thị chư Sa-môn, Bà-la-môn lập đoạn diệt luận, chấp hữu tình đoạn diệt, tiêu vong, hủy hoại, cộng thành thất chủng kiến.
Thus they frame seven annihilationist views about beings.
Này các Tỷ-kheo, nếu có những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương Ðoạn diệt luận, chấp trước sự đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại của loài hữu tình, chúng chấp cả bảy luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
諸比丘,若有沙門、婆羅門執有情斷滅之論,必於此七見中,或執悉有,或執其一,更無別說。
Zhū bǐqiū, ruò yǒu shāmén, Póluómén zhí yǒuqíng duànmiè zhī lùn, bì yú cǐ qī jiàn zhōng, huò zhí xī yǒu, huò zhí qí yī, gèng wú bié shuō.
Chư Tỷ-kheo, nhược hữu Sa-môn, Bà-la-môn chấp hữu tình đoạn diệt chi luận, tất ư thử thất kiến trung, hoặc chấp tất hữu, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô biệt thuyết.
Anyone who holds annihilationism fits into these seven, or one of them.
⸻
Này các Tỷ-kheo. Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”.
諸比丘,如來如是知:「諸見如是執取,當導至如是諸趣,成就如是諸命。」
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Zhū jiàn rúshì zhīqǔ, dāng dǎozhì rúshì zhū qù, chéngjiù rúshì zhū mìng.”
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Chư kiến như thị chi thủ, đương đạo chí như thị chư thú, thành tựu như thị chư mệnh.”
The Tathāgata knows where such views lead and what destinies they shape.
Như Lai tuệ tri. Như vậy, Ngài tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy.
如來如是知,亦更知其上,而於所知不取不著。
Rúlái rúshì zhī, yì gèng zhī qí shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó.
Như Lai như thị tri, diệc cánh tri kỳ thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước.
He knows this and beyond this, yet does not cling to knowledge.
Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh.
以不執取所知故,內心得寂靜。
Yǐ bù zhīqǔ suǒ zhī gù, nèixīn dé jìjìng.
Dĩ bất chi thủ sở tri cố, nội tâm đắc tịch tịnh.
Because he does not cling, his mind is utterly serene.
Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng.
如實知諸受之集、滅、味、患及出離。
Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn jí chūlí.
Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn cập xuất ly.
He truly sees the origin, end, sweetness, danger and escape of feelings.
Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
以如是智,諸比丘,如來究竟解脫,無有執取。
Yǐ rúshì zhì, zhū bǐqiū, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhízhuó.
Dĩ như thị trí, chư Tỷ-kheo, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp trước.
Thus he is fully liberated, free from all grasping.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể nhận biết.
諸比丘,此諸法甚深難見難證,寂靜妙善,超越戲論,微細惟智者能知。
Zhū bǐqiū, cǐ zhū fǎ shènshēn nánjiàn nánzhèng, jìjìng miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng zhī.
Chư Tỷ-kheo, thử chư pháp thậm thâm nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu thiện, siêu việt hí luận, vi tế duy trí giả năng tri.
These dhammas are deep, subtle, peaceful, beyond speculation, known only by the wise.
Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết: và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
如來自證自悟而宣說;唯如實正讚如來者,乃說此法。
Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō; wéi rúshí zhèng zàn Rúlái zhě, nǎi shuō cǐ fǎ.
Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết; duy như thật chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thử pháp.
He realized and taught them; only true praise of the Tathāgata speaks of these.
⸻
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hiện tại Niết Bàn luận, chấp trước sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình với năm luận chấp.
諸比丘,有諸沙門、婆羅門立現法涅槃論,執有情於現法得最上涅槃,有五種見。
Zhū bǐqiū, yǒu zhū shāmén, Póluómén lì xiànfǎ nièpán lùn, zhí yǒuqíng yú xiànfǎ dé zuìshàng nièpán, yǒu wǔ zhǒng jiàn.
Chư Tỷ-kheo, hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Hiện pháp Niết-bàn luận, chấp hữu tình ư hiện pháp đắc tối thượng Niết-bàn, hữu ngũ chủng kiến.
Some claim beings attain a supreme “here-and-now nibbāna” in five ways.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Hiện tại Niết bàn luận, chấp sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình với năm luận chấp?
而此諸沙門、婆羅門依何所據,而立有情現法最上涅槃之五種見耶?
Ér cǐ zhū shāmén, Póluómén yī hé suǒ jù, ér lì yǒuqíng xiànfǎ zuìshàng nièpán zhī wǔ zhǒng jiàn yé?
Nhi thử chư Sa-môn, Bà-la-môn y hà sở cứ nhi lập hữu tình hiện pháp tối thượng Niết-bàn chi ngũ chủng kiến da?
On what basis do they form these five present-nibbāna theories?
Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương và quan niệm: “Khi nào bản ngã này tận hưởng, sung mãn năm món dục lạc, như thế bản ngã ấy đạt đến tối thượng Niết Bàn của loài hữu tình”.
諸比丘,有沙門、婆羅門作如是見:「當此我於五欲功德,極盡享受、滿足盈溢,是即有情得最上現法涅槃。」
Zhū bǐqiū, yǒu shāmén, Póluómén zuò rúshì jiàn: “Dāng cǐ wǒ yú wǔ yù gōngdé, jíjìn xiǎngshòu, mǎnzú yíngyì, shì jí yǒuqíng dé zuìshàng xiànfǎ nièpán.”
Chư Tỷ-kheo, hữu Sa-môn, Bà-la-môn tác như thị kiến: “Đương thử ngã ư ngũ dục công đức, cực tận hưởng thọ, mãn túc doanh ứ, thị tức hữu tình đắc tối thượng hiện pháp Niết-bàn.”
Some say: perfect enjoyment of the five sensual pleasures is the supreme nibbāna here and now.
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế, không phải hoàn toàn đạt đến tối thượng Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì rằng tính của dục lạc là vô thường, khổ, biến dịch. Vì tánh của chúng là biến dịch, chuyển hóa, nên ưu, bi, khổ, muộn, não phát sanh. Khi nào bản ngã ấy ly các dục lạc, ly các ác pháp, đạt đến và an trú vào đệ nhất thiền; thiền định này có tầm, có tứ, có hỷ và có lạc, do ly dục sanh. Như thế, bản ngã ấy đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình.
復有一人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但彼如是,未為究竟最上涅槃。何以故?以諸欲樂性是無常、是苦、是變易故;由其變易轉變,憂悲苦惱隨之而起。若此我離諸欲樂,離諸惡法,得至住於初禪;此禪有尋有伺,有喜有樂,由離欲生。如是,斯我得最上現法涅槃。」如是有諸人立有情最上現法涅槃。
Fù yǒu yī rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn bǐ rúshì, wèi wéi jiùjìng zuìshàng nièpán. Héyǐ gù? Yǐ zhū yùlè xìng shì wúcháng, shì kǔ, shì biànyì gù; yóu qí biànyì zhuǎnbiàn, yōu bēi kǔ nǎo suí zhī ér qǐ. Ruò cǐ wǒ lí zhū yùlè, lí zhū èfǎ, dé zhì zhù yú chūchán; cǐ chán yǒu xún yǒu sì, yǒu xǐ yǒu lè, yóu lí yù shēng. Rúshì, sī wǒ dé zuìshàng xiànfǎ nièpán.” Rúshì yǒu zhū rén lì yǒuqíng zuìshàng xiànfǎ nièpán.
Phục hữu nhất nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn bỉ như thị, vị vi cứu cánh tối thượng Niết-bàn. Hà dĩ cố? Dĩ chư dục lạc tánh thị vô thường, thị khổ, thị biến dịch cố; do kỳ biến dịch chuyển biến, ưu bi khổ não tùy chi nhi khởi. Nhược thử ngã ly chư dục lạc, ly chư ác pháp, đắc chí trụ ư Sơ thiền; thử thiền hữu tầm hữu tứ, hữu hỷ hữu lạc, do ly dục sanh. Như thị, tư ngã đắc tối thượng hiện pháp Niết-bàn.” Như thị hữu chư nhân lập hữu tình tối thượng hiện pháp Niết-bàn.
Others claim: freedom from sense-desires and attaining first jhāna is the supreme present nibbāna.
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế, không phải hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây thiền định ấy có tầm, có tứ nên gọi là thô tháo. Khi nào bản ngã ấy có tầm và tứ, đạt đến và an trú đệ nhị thiền. Thiền định này nội tâm yên tĩnh, trí chuyên nhất cảnh, không tầm, không tứ, hỷ lạc do định sanh. Như thế, bản ngã ấy đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình.
復有一人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但此猶未是最上現法涅槃。何以故?以此禪中有尋有伺,名為麤重。若此我離尋離伺,得至住於第二禪;此禪內心寂靜,慧一境性,無尋無伺,喜樂由定而生。如是,斯我得最上現法涅槃。」如是有諸人立有情最上現法涅槃。
Fù yǒu yī rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn cǐ yóu wèi shì zuìshàng xiànfǎ nièpán. Héyǐ gù? Yǐ cǐ chán zhōng yǒu xún yǒu sì, míng vi cūzhòng. Ruò cǐ wǒ lí xún lí sì, dé zhì zhù yú dì-èr chán; cǐ chán nèixīn jìjìng, huì yī jìng xìng, wú xún wú sì, xǐlè yóu dìng ér shēng. Rúshì, sī wǒ dé zuìshàng xiànfǎ nièpán.” Rúshì yǒu zhū rén lì yǒuqíng zuìshàng xiànfǎ nièpán.
Phục hữu nhất nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn thử do vị thị tối thượng hiện pháp Niết-bàn. Hà dĩ cố? Dĩ thử thiền trung hữu tầm hữu tứ, danh vi thô trọng. Nhược thử ngã ly tầm ly tứ, đắc chí trụ ư Đệ nhị thiền; thử thiền nội tâm tịch tĩnh, tuệ nhất cảnh tánh, vô tầm vô tứ, hỷ lạc do định nhi sanh. Như thị, tư ngã đắc tối thượng hiện pháp Niết-bàn.” Như thị hữu chư nhân lập hữu tình tối thượng hiện pháp Niết-bàn.
Some say: the second jhāna, beyond thought and examination, is the supreme nibbāna in this life.
1. Đoạn thứ nhất
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế, không phải hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây tâm trí có hỷ và bị kích động nên gọi là thô tháo. Khi nào bản ngã ấy không tham hỷ, trú xả, chánh niệm, chánh trí, thân hưởng lạc mà các bậc thánh gọi là Hỷ niệm lạc trú—đạt đến và an trú đệ tam thiền. Như thế, bản ngã ấy đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn”.
彼復有人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但此我如是,未為究竟現法最上涅槃。何以故?於此心有喜、有動,故名麤重。若此我離於喜貪,住於捨,正念正智,身受樂,聖者名為喜念樂住,得至住於第三禪,是名此我得現法最上涅槃。」
Bǐ fù yǒu rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn cǐ wǒ rúshì, wèi wéi jiùjìng xiànfǎ zuìshàng nièpán. Héyǐ gù? Yú cǐ xīn yǒu xǐ, yǒu dòng, gù míng cūzhòng. Ruò cǐ wǒ lí yú xǐtān, zhù yú shě, zhèngniàn zhèngzhì, shēn shòu lè, shèngzhě míng wéi xǐniàn lèzhù, dé zhì zhù yú dì-sān chán, shì míng cǐ wǒ dé xiànfǎ zuìshàng nièpán.”
Bỉ phục hữu nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn thử ngã như thị, vị vi cứu cánh hiện pháp tối thượng Niết-bàn. Hà dĩ cố? Ư thử tâm hữu hỷ, hữu động, cố danh thô trọng. Nhược thử ngã ly ư hỷ tham, trụ ư xả, chánh niệm chánh trí, thân thọ lạc, thánh giả danh vi Hỷ niệm lạc trú, đắc chí trụ ư Đệ tam thiền, thị danh thử ngã đắc hiện pháp tối thượng Niết-bàn.”
⸻
2. Đoạn thứ hai
Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói bản ngã ấy không có. Nhưng bản ngã ấy như thế, không phải hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây tâm thọ lạc nên gọi là thô tháo. Khi nào bản ngã ấy xả lạc và xả khổ, diệt trừ hỷ và ưu về trước, đạt đến và an trú vào đệ tứ thiền. Thiền này không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như thế, bản ngã ấy đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn”.
彼復有人言:「仁者,如汝所說實有此我,我不言彼我非有。但此我如是,未為究竟現法最上涅槃。何以故?於此心受樂,故名麤重。若此我捨樂捨苦,滅前喜憂,得至住於第四禪,此禪不苦不樂,捨念清淨,是名此我得現法最上涅槃。」
Bǐ fù yǒu rén yán: “Rénzhě, rú rǔ suǒ shuō shí yǒu cǐ wǒ, wǒ bù yán bǐ wǒ fēi yǒu. Dàn cǐ wǒ rúshì, wèi wéi jiùjìng xiànfǎ zuìshàng nièpán. Héyǐ gù? Yú cǐ xīn shòu lè, gù míng cūzhòng. Ruò cǐ wǒ shě lè shě kǔ, miè qián xǐ yōu, dé zhì zhù yú dì-sì chán, cǐ chán bù kǔ bù lè, shěniàn qīngjìng, shì míng cǐ wǒ dé xiànfǎ zuìshàng nièpán.”
Bỉ phục hữu nhân ngôn: “Nhân giả, như nhữ sở thuyết thật hữu thử ngã, ngã bất ngôn bỉ ngã phi hữu. Đãn thử ngã như thị, vị vi cứu cánh hiện pháp tối thượng Niết-bàn. Hà dĩ cố? Ư thử tâm thọ lạc, cố danh thô trọng. Nhược thử ngã xả lạc xả khổ, diệt tiền hỷ ưu, đắc chí trụ ư Đệ tứ thiền; thử thiền bất khổ bất lạc, xả niệm thanh tịnh, thị danh thử ngã đắc hiện pháp tối thượng Niết-bàn.”
⸻
3. Kết luận của phẩm
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận…
諸比丘,是諸沙門、婆羅門立現法涅槃論……
Zhū bǐqiū, shì zhū shāmén, Póluómén lì xiànfǎ nièpán lùn……
Chư Tỷ-kheo, thị chư Sa-môn, Bà-la-môn lập hiện pháp Niết-bàn luận……
Nếu họ chủ trương như vậy, họ sẽ chấp đủ năm luận chấp hoặc một phần trong ấy, ngoài ra không có luận nào khác.
若作如是見,或執五說,或執其一,更無餘論。
Ruò zuò rúshì jiàn, huò zhí wǔ shuō, huò zhí qí yī, gèng wú yúlùn.
Nhược tác như thị kiến, hoặc chấp ngũ thuyết, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô dư luận.
Như Lai tuệ tri như thật, nhưng không chấp trước. Nhờ vậy tâm được tịch tịnh và giải thoát hoàn toàn.
如來如實知之,而不取著;以此故心得寂靜,究竟解脫。
Rúlái rúshí zhī zhī, ér bù qǔzhuó; yǐ cǐ gù xīn dé jìjìng, jiùjìng jiětuō.
Như Lai như thật tri chi, nhi bất thủ trước; dĩ thử cố tâm đắc tịch tịnh, cứu cánh giải thoát.
1. Đoạn “Như Lai tuệ tri…” (lần thứ nhất)
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”. Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
諸比丘,如來如是知:「諸見如是執取,將至如是諸趣,成就如是諸命。」如來如是知,亦更知其上,而於所知不取不著;以不取著故,內心得寂靜。如實知諸受之集、滅、味、患、出離;以如是智,如來究竟解脫,無有執取。
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī: “Zhū jiàn rúshì zhīqǔ, jiāng zhì rúshì zhū qù, chéngjiù rúshì zhū mìng.” Rúlái rúshì zhī, yì gèng zhī qí shàng, ér yú suǒ zhī bù qǔ bù zhuó; yǐ bù qǔzhuó gù, nèixīn dé jìjìng. Rúshí zhī zhū shòu zhī jí, miè, wèi, huàn, chūlí; yǐ rúshì zhì, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú yǒu zhízhuó.
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri: “Chư kiến như thị chi thủ, tương chí như thị chư thú, thành tựu như thị chư mệnh.” Như Lai như thị tri, diệc cánh tri kỳ thượng, nhi ư sở tri bất thủ bất trước; dĩ bất thủ trước cố, nội tâm đắc tịch tịnh. Như thật tri chư thọ chi tập, diệt, vị, hoạn, xuất ly; dĩ như thị trí, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô hữu chấp trước.
⸻
2. Đoạn “Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ…”
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy luận bàn về quá khứ tối sơ và luận bàn về tương lai, luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp.
諸比丘,彼諸沙門、婆羅門論昔無始,論未來,論昔無始及未來;執昔無始及未來之見,依昔無始及未來,施設種種異見,共成六十二見。
Zhū bǐqiū, bǐ zhū shāmén, Póluómén lùn xī wúshǐ, lùn wèilái, lùn xī wúshǐ jí wèilái; zhí xī wúshǐ jí wèilái zhī jiàn, yī xī wúshǐ jí wèilái, shèshī zhǒngzhǒng yìjiàn, gòng chéng liùshí’èr jiàn.
Chư Tỷ-kheo, bỉ chư Sa-môn, Bà-la-môn luận tích vô thủy, luận vị lai, luận tích vô thủy cập vị lai; chấp tích vô thủy cập vị lai chi kiến, y tích vô thủy cập vị lai, thiết lập chủng chủng dị kiến, cộng thành lục thập nhị kiến.
⸻
3. Đoạn “Những vị ấy sẽ chấp 62 luận chấp…”
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào… họ sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong số ấy, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
諸比丘,凡諸沙門、婆羅門作此等論者,或盡執六十二見,或執其一,更無餘見。
Zhū bǐqiū, fán zhū shāmén, Póluómén zuò cǐ děng lùn zhě, huò jìn zhí liùshí’èr jiàn, huò zhí qí yī, gèng wú yú jiàn.
Chư Tỷ-kheo, phàm chư Sa-môn, Bà-la-môn tác thử đẳng luận giả, hoặc tận chấp lục thập nhị kiến, hoặc chấp kỳ nhất, cánh vô dư kiến.
⸻
4. Đoạn “Như Lai tuệ tri như thế này…” (lần thứ hai)
Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này… nội tâm được tịch tịnh… Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
諸比丘,如來如是知;以不取著故,內心寂靜;由如是智,如來究竟解脫,無所執取。
Zhū bǐqiū, Rúlái rúshì zhī; yǐ bù qǔzhuó gù, nèixīn jìjìng; yóu rúshì zhì, Rúlái jiùjìng jiětuō, wú suǒ zhízhuó.
Chư Tỷ-kheo, Như Lai như thị tri; dĩ bất thủ trước cố, nội tâm tịch tịnh; do như thị trí, Như Lai cứu cánh giải thoát, vô sở chấp trước.
⸻
5. Đoạn “Những pháp ấy… sâu kín, khó thấy…”
Những pháp ấy… sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm luận lý suông, tế nhị, chỉ người trí mới nhận biết… Như Lai tự chứng, giác ngộ và tuyên thuyết; người tán thán Như Lai chân chánh mới nói đến.
諸法甚深,難見難證,寂靜妙善,超越戲論,微細唯智者能知;如來自證自悟而宣說,唯正讚如來者乃說此法。
Zhū fǎ shènshēn, nánjiàn nánzhèng, jìjìng miàoshàn, chāoyuè xìlùn, wēixì wéi zhìzhě néng zhī; Rúlái zìzhèng zìwù ér xuānshuō, wéi zhèng zàn Rúlái zhě nǎi shuō cǐ fǎ.
Chư pháp thậm thâm, nan kiến nan chứng, tịch tịnh diệu thiện, siêu việt hí luận, vi tế duy trí giả năng tri; Như Lai tự chứng tự ngộ nhi tuyên thuyết, duy chánh tán Như Lai giả nãi thuyết thử pháp.
1. Thường trú luận – 4 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự kích thích, dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立常住論,執我及世間為常住,有四種見;斯諸見皆是個人經驗,乃因不知不見,由彼沙門、婆羅門之感受,為愛欲所動,興起顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì chángzhù lùn, zhí wǒ jí shìjiān wéi chángzhù, yǒu sì zhǒng jiàn; sī zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, nǎi yīn bù zhī bù jiàn, yóu bǐ shāmén, Póluómén zhī gǎnshòu, wéi àiyù suǒ dòng, xīngqǐ diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Thường trú luận, chấp ngã cập thế gian vi thường trú, hữu tứ chủng kiến; tư chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, nãi nhân bất tri bất kiến, do bỉ Sa-môn, Bà-la-môn chi cảm thọ, vi ái dục sở động, hưng khởi điên đảo dữ nhiễu loạn.
⸻
2. Một phần thường – một phần vô thường
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận… Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân… là sự kích thích, dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立一分常住、一分無常之論……此等諸見皆是個人經驗,不知不見,由其感受為愛所動而起顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì yīfēn chángzhù, yīfēn wúcháng zhī lùn…… cǐ děng zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, yóu qí gǎnshòu wéi ài suǒ dòng ér qǐ diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập nhất phần Thường trú, nhất phần Vô thường chi luận…… thử đẳng chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, do kỳ cảm thọ vi ái sở động nhi khởi điên đảo dữ nhiễu loạn.
⸻
3. Hữu biên – Vô biên luận
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận… Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân… là sự kích thích dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立有邊無邊論……此諸見皆是個人經驗,不知不見,為愛所動而生顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì yǒubiān wúbiān lùn…… cǐ zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, wéi ài suǒ dòng ér shēng diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Hữu biên Vô biên luận…… thử chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, vi ái sở động nhi sanh điên đảo dữ nhiễu loạn.
⸻
4. Ngụy biện luận – 4 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận… dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn… Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân… là sự xuyên tạc của người bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立蛙語論(詭辯論),遇問則如鱔螺之滑語回避……此等諸見皆是個人經驗,不知不見,為愛所動而起顛倒與曲解。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì wāyǔ lùn (guǐbiàn lùn), yù wèn zé rú shànluó zhī huá yǔ huíbì…… cǐ děng zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, wéi ài suǒ dòng ér qǐ diāndǎo yǔ qūjiě.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập oa ngữ luận (quỷ biện luận), ngộ vấn tắc như thiện loa chi hoạt ngữ hồi tỵ…… thử đẳng chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, vi ái sở động nhi khởi điên đảo dữ khúc giải.
⸻
5. Vô nhân luận – 2 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô nhân luận… Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân… là sự kích thích, dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立無因論……此諸見皆是個人經驗,不知不見,由愛動搖而起顛倒與錯亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì wúyīn lùn…… cǐ zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, yóu ài dòngyáo ér qǐ diāndǎo yǔ cuòluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Vô nhân luận…… thử chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, do ái động dao nhi khởi điên đảo dữ thác loạn.
⸻
6. Luận về quá khứ tối sơ – 18 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ… với mười tám luận chấp… Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân… là sự kích thích, dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門論昔無始,施設十八見……此等諸見皆從個人經驗而起,不知不見,由愛所動而生顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lùn xī wúshǐ, shèshī shíbā jiàn…… cǐ děng zhū jiàn jiē cóng gèrén jīngyàn ér qǐ, bù zhī bù jiàn, yóu ài suǒ dòng ér shēng diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn luận tích vô thủy, thiết lập thập bát kiến…… thử đẳng chư kiến giai tòng cá nhân kinh nghiệm nhi khởi, bất tri bất kiến, do ái sở động nhi sanh điên đảo dữ nhiễu loạn.
1. Hữu tưởng luận – 16 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã có tưởng sau khi chết với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự kích thích, dao động xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối.
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立死後有想論,執我死後有想,共成十六見;此諸見皆是個人經驗,不知不見,由彼沙門、婆羅門之感受,為愛所動,興起顛倒與曲解。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu yǒuxiǎng lùn, zhí wǒ sǐhòu yǒuxiǎng, gòng chéng shíliù jiàn; cǐ zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, yóu bǐ shāmén, Póluómén zhī gǎnshòu, wéi ài suǒ dòng, xīngqǐ diāndǎo yǔ qūjiě.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu Hữu tưởng luận, chấp ngã tử hậu hữu tưởng, cộng thành thập lục kiến; thử chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, do bỉ Sa-môn, Bà-la-môn chi cảm thọ, vi ái sở động, hưng khởi điên đảo dữ khúc giải.
⸻
2. Vô tưởng luận – 8 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立死後無想論,執我死後無想,共成八見;此等諸見皆是個人經驗,不知不見,由愛所動而起顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu wúxiǎng lùn, zhí wǒ sǐhòu wúxiǎng, gòng chéng bā jiàn; cǐ děng zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, yóu ài suǒ dòng ér qǐ diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu Vô tưởng luận, chấp ngã tử hậu vô tưởng, cộng thành bát kiến; thử đẳng chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, do ái sở động nhi khởi điên đảo dữ nhiễu loạn.
⸻
3. Phi hữu tưởng phi vô tưởng – 8 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng sau khi chết… với tám luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立死後非有想非無想論,執我死後非有想非無想,共成八見;此諸見皆是個人經驗,不知不見,為愛所動而生顛倒與曲解。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng lùn, zhí wǒ sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng, gòng chéng bā jiàn; cǐ zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, wéi ài suǒ dòng ér shēng diāndǎo yǔ qūjiě.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập tử hậu Phi hữu tưởng phi vô tưởng luận, chấp ngã tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng, cộng thành bát kiến; thử chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, vi ái sở động nhi sanh điên đảo dữ khúc giải.
⸻
4. Đoạn diệt luận – 7 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ðoạn diệt luận… với bảy luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立斷滅論,執有情斷滅、消失、敗壞,共成七見;此等諸見皆因個人經驗,不知不見,為愛所動而起顛倒與錯亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì duànmiè lùn, zhí yǒuqíng duànmiè, xiāoshī, bàihuài, gòng chéng qī jiàn; cǐ děng zhū jiàn jiē yīn gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, wéi ài suǒ dòng ér qǐ diāndǎo yǔ cuòluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Đoạn diệt luận, chấp hữu tình đoạn diệt, tiêu thất, bại hoại, cộng thành thất kiến; thử đẳng chư kiến giai nhân cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, vi ái sở động nhi khởi điên đảo dữ thác loạn.
⸻
5. Hiện tại Niết-bàn luận – 5 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hiện tại Niết Bàn luận… với năm luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門立現法涅槃論,執有情於現法得最上涅槃,共成五見;此等諸見皆是個人經驗,不知不見,由愛所動而生顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lì xiànfǎ nièpán lùn, zhí yǒuqíng yú xiànfǎ dé zuìshàng nièpán, gòng chéng wǔ jiàn; cǐ děng zhū jiàn jiē shì gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, yóu ài suǒ dòng ér shēng diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn lập Hiện pháp Niết-bàn luận, chấp hữu tình ư hiện pháp đắc tối thượng Niết-bàn, cộng thành ngũ kiến; thử đẳng chư kiến giai thị cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, do ái sở động nhi sanh điên đảo dữ nhiễu loạn.
⸻
6. Luận về tương lai – 44 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về tương lai… với bốn mươi bốn luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門論未來,施設四十四見;此諸見皆從個人經驗而生,不知不見,由愛動搖而起顛倒與曲解。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lùn wèilái, shèshī sìshísì jiàn; cǐ zhū jiàn jiē cóng gèrén jīngyàn ér shēng, bù zhī bù jiàn, yóu ài dòngyáo ér qǐ diāndǎo yǔ qūjiě.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn luận vị lai, thiết lập tứ thập tứ kiến; thử chư kiến giai tòng cá nhân kinh nghiệm nhi sanh, bất tri bất kiến, do ái động dao nhi khởi điên đảo dữ khúc giải.
⸻
7. Luận quá khứ tối sơ & tương lai – 62 luận chấp
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn… chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai… với sáu mươi hai luận chấp…
諸比丘,此中有諸沙門、婆羅門論昔無始及未來,施設六十二見;此諸見皆由個人經驗,不知不見,為愛所動而起顛倒與擾亂。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén, Póluómén lùn xī wúshǐ jí wèilái, shèshī liùshí’èr jiàn; cǐ zhū jiàn jiē yóu gèrén jīngyàn, bù zhī bù jiàn, wéi ài suǒ dòng ér qǐ diāndǎo yǔ rǎoluàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn, Bà-la-môn luận tích vô thủy cập vị lai, thiết lập lục thập nhị kiến; thử chư kiến giai do cá nhân kinh nghiệm, bất tri bất kiến, vi ái sở động nhi khởi điên đảo dữ nhiễu loạn.
1. Thường trú luận – phát khởi do xúc chạm
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
諸比丘,此中有諸沙門婆羅門立常住論,執我與世界常住,共成四見;此等見由六根觸生起。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén Póluómén lì chángzhù lùn, zhí wǒ yǔ shìjiè chángzhù, gòng chéng sì jiàn; cǐ děng jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn Bà-la-môn lập Thường trú luận, chấp ngã dữ thế giới thường trú, cộng thành tứ kiến; thử đẳng kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
2. Một phần thường – một phần vô thường luận
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
諸比丘,此中有諸沙門婆羅門立一分常住一分無常論;此等見由六根觸生起。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén Póluómén lì yīfēn chángzhù yīfēn wúcháng lùn; cǐ děng jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn Bà-la-môn lập nhất phần Thường trú nhất phần Vô thường luận; thử đẳng kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
3. Hữu biên – vô biên luận
…chấp thế giới là hữu biên vô biên… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執世界為有邊無邊;此見由六根觸生起。
…Zhí shìjiè wéi yǒubiān wúbiān; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp thế giới vi hữu biên vô biên; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
4. Ngụy biện luận
…khi bị hỏi… dùng lời trườn uốn như lươn… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…被問則曲辯如鱔;此見由六根觸生起。
…Bèi wèn zé qūbiàn rú shàn; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Bị vấn tắc khúc biện như thiện; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
5. Vô nhân luận
…chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執我與世界無因而生;此見由六根觸生起。
…Zhí wǒ yǔ shìjiè wúyīn ér shēng; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp ngã dữ thế giới vô nhân nhi sinh; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
6. Luận quá khứ tối sơ – 18 luận chấp
…đề xướng nhiều sở kiến… với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…施設十八見;此等見由六根觸生起。
…Shèshī shíbā jiàn; cǐ děng jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Thiết lập thập bát kiến; thử đẳng kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
7. Hữu tưởng sau khi chết – 16 luận chấp
…chấp bản ngã có tưởng sau khi chết… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執我死後有想;此見由六根觸生起。
…Zhí wǒ sǐhòu yǒuxiǎng; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp ngã tử hậu hữu tưởng; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
8. Vô tưởng sau khi chết – 8 luận chấp
…chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執我死後無想;此見由六根觸生起。
…Zhí wǒ sǐhòu wúxiǎng; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp ngã tử hậu vô tưởng; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
9. Phi hữu tưởng phi vô tưởng – 8 luận chấp
…chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執我死後非有想非無想;此見由六根觸生起。
…Zhí wǒ sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp ngã tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
10. Đoạn diệt luận – 7 luận chấp
…chấp sự đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài hữu tình… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執有情斷滅消亡敗壞;此見由六根觸生起。
…Zhí yǒuqíng duànmiè xiāowáng bàihuài; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp hữu tình đoạn diệt tiêu vong bại hoại; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
11. Hiện tại Niết-bàn luận – 5 luận chấp
…chấp sự hiện tại Niết-bàn của loài hữu tình… Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…執有情現法得涅槃;此見由六根觸生起。
…Zhí yǒuqíng xiànfǎ dé nièpán; cǐ jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Chấp hữu tình hiện pháp đắc Niết-bàn; thử kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
12. Luận về tương lai – 44 luận chấp
…đề xướng nhiều sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…施設四十四見;此等見由六根觸生起。
…Shèshī sìshísì jiàn; cǐ děng jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Thiết lập tứ thập tứ kiến; thử đẳng kiến do lục căn xúc sinh khởi.
⸻
13. Quá khứ tối sơ & tương lai – 62 luận chấp
…đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm.
…施設六十二見;此等見由六根觸生起。
…Shèshī liùshí’èr jiàn; cǐ děng jiàn yóu liùgēn chù shēngqǐ.
…Thiết lập lục thập nhị kiến; thử đẳng kiến do lục căn xúc sinh khởi.
“KHÔNG THỂ CẢM THỌ NẾU KHÔNG CÓ CẢM XÚC” ✦
⸻
1. Thường trú luận
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
諸比丘,此中有諸沙門婆羅門立常住論,執我與世界常存四種見;若無觸受則不能領受此見。
Zhū bǐqiū, cǐ zhōng yǒu zhū shāmén póluómén lì chángzhù lùn, zhí wǒ yǔ shìjiè chángcún sì zhǒng jiàn; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
Chư Tỷ-kheo, thử trung hữu chư Sa-môn Bà-la-môn lập Thường trú luận, chấp ngã dữ thế giới thường tồn tứ chủng kiến; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
2. Một phần thường – một phần vô thường
…chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác… Những vị này không thể cảm thọ… nếu không có cảm xúc.
…執我與世界於一類常於一類無常;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí wǒ yǔ shìjiè yú yī lèi cháng yú yī lèi wúcháng; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp ngã dữ thế giới ư nhất loại thường, ư nhất loại vô thường; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
3. Hữu biên – vô biên luận
…chấp thế giới là hữu biên vô biên… Những vị này không thể cảm thọ… nếu không có cảm xúc.
…執世界為有邊無邊;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí shìjiè wéi yǒubiān wúbiān; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp thế giới vi hữu biên vô biên; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
4. Ngụy biện luận
…dùng lời trườn uốn như lươn… Những vị này không thể cảm thọ… nếu không có cảm xúc.
…以言曲辯如鱔;若無觸受則不能領受此見。
…Yǐ yán qūbiàn rú shàn; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Dĩ ngôn khúc biện như thiện; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
5. Vô nhân luận
…chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh… Những vị này không thể cảm thọ… nếu không có cảm xúc.
…執我與世界無因而生;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí wǒ yǔ shìjiè wúyīn ér shēng; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp ngã dữ thế giới vô nhân nhi sinh; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
6. Mười tám luận quá khứ tối sơ
…đề xướng nhiều ý kiến sai khác với mười tám luận chấp… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…施設十八見;若無觸受則不能領受此見。
…Shèshī shíbā jiàn; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Thiết lập thập bát kiến; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
7. Hữu tưởng sau khi chết – 16 luận chấp
…chấp bản ngã có tưởng sau khi chết… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…執我死後有想;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí wǒ sǐhòu yǒuxiǎng; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp ngã tử hậu hữu tưởng; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
8. Vô tưởng sau khi chết – 8 luận chấp
…chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…執我死後無想;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí wǒ sǐhòu wúxiǎng; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp ngã tử hậu vô tưởng; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
9. Phi hữu tưởng phi vô tưởng – 8 luận chấp
…chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…執我死後非有想非無想;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí wǒ sǐhòu fēi yǒuxiǎng fēi wúxiǎng; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp ngã tử hậu phi hữu tưởng phi vô tưởng; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
10. Đoạn diệt luận – 7 luận chấp
…chấp sự đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài hữu tình… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…執有情斷滅敗壞;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí yǒuqíng duànmiè bàihuài; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp hữu tình đoạn diệt bại hoại; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
11. Hiện tại Niết-bàn luận – 5 luận chấp
…chấp sự hiện tại Niết Bàn… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…執現法得涅槃;若無觸受則不能領受此見。
…Zhí xiànfǎ dé nièpán; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Chấp hiện pháp đắc Niết-bàn; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
12. Bốn mươi bốn luận tương lai
…đề xướng nhiều sở kiến sai khác… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…施設四十四見;若無觸受則不能領受此見。
…Shèshī sìshísì jiàn; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Thiết lập tứ thập tứ kiến; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
⸻
13. Sáu mươi hai luận (quá khứ tối sơ + tương lai)
…đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp… không thể cảm thọ nếu không có cảm xúc.
…施設六十二見;若無觸受則不能領受此見。
…Shèshī liùshí’èr jiàn; ruò wú chùshòu zé bùnéng lǐngshòu cǐ jiàn.
…Thiết lập lục thập nhị kiến; nhược vô xúc thọ tắc bất năng lĩnh thọ thử kiến.
PHẨM KẾT (PHÁP VÕNG) ✦
⸻
1. Các luận chấp khởi lên từ xúc, dẫn đến ái – thủ – hữu – sinh – lão tử
Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận… cho đến sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những cảm thọ (những chủ trương trên) do sự xúc chạm qua sáu xúc xứ. Do duyên cảm thọ mà tham ái phát khởi; do duyên tham ái, thủ phát khởi; do duyên thủ, hữu phát khởi; do duyên hữu, sanh phát khởi; do duyên sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não phát khởi. Khi Tỷ-kheo như thật biết sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu chỗ xúc xứ, vị ấy có sự hiểu biết vượt ngoài những điều trên.
諸比丘,凡諸沙門婆羅門從常住論乃至六十二見,皆由六觸處而生諸受;因受起愛,因愛起取,因取起有,因有起生,因生起老死憂悲苦惱。比丘若如實知六觸之集滅、其味、其患、其出離,則得超越於諸見外。
Zhū bǐqiū, fán zhū shāmén póluómén cóng chángzhù lùn nǎizhì liùshí’èr jiàn, jiē yóu liù chù chù ér shēng zhū shòu; yīn shòu qǐ ài, yīn ài qǐ qǔ, yīn qǔ qǐ yǒu, yīn yǒu qǐ shēng, yīn shēng qǐ lǎo-sǐ-yōu-bēi-kǔ-nǎo. Bǐqiū ruò rúshí zhī liù chù zhī jí-miè, qí wèi, qí huàn, qí chūlí, zé dé chāoyuè yú zhū jiàn wài.
Chư Tỷ-kheo, phàm chư Sa-môn Bà-la-môn tùng Thường trú luận nãi chí Lục thập nhị kiến, giai do lục xúc xứ nhi sinh chư thọ; nhân thọ khởi ái, nhân ái khởi thủ, nhân thủ khởi hữu, nhân hữu khởi sinh, nhân sinh khởi lão tử ưu bi khổ não. Tỷ-kheo nhược như thật tri lục xúc chi tập diệt, kỳ vị, kỳ hoạn, kỳ xuất ly, tắc đắc siêu việt ư chư kiến ngoại.
⸻
2. Lưới sáu mươi hai luận chấp bao trùm tất cả
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ, hoặc tương lai, hoặc cả hai… tất cả đều bị bao trùm bởi lưới của sáu mươi hai luận chấp; dầu họ nhảy vọt lên, vẫn bị hạn cuộc ở nơi đây.
諸比丘,若論本初,若論未來,或論本初與未來者,皆為六十二見之網所覆,雖欲躍出,終不能越。
Zhū bǐqiū, ruò lùn běnchū, ruò lùn wèilái, huò lùn běnchū yǔ wèilái zhě, jiē wéi liùshí’èr jiàn zhī wǎng suǒ fù, suī yù yuè chū, zhōng bùnéng yuè.
Chư Tỷ-kheo, nhược luận bản sơ, nhược luận vị lai, hoặc luận bản sơ dữ vị lai giả, giai vi Lục thập nhị kiến chi võng sở phú; tuy dục dược xuất, chung bất năng việt.
⸻
3. Thí dụ lưới bắt cá
Ví như người đánh cá lành nghề vung lưới trên hồ nhỏ… tất cả cá lớn đều bị lưới bao phủ; dầu chúng nhảy vọt vẫn không thoát. Cũng vậy, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn những kiến chấp trên đều bị lưới sáu mươi hai luận chấp bao phủ.
譬如善漁者張密網於小池,諸大魚皆在網中,雖躍不能脫。此諸沙門婆羅門亦為六十二見之網所覆。
Pìrú shàn yú zhě zhāng mì wǎng yú xiǎo chí, zhū dà yú jiē zài wǎng zhōng, suī yuè bùnéng tuō. Cǐ zhū shāmén póluómén yì wéi liùshí’èr jiàn zhī wǎng suǒ fù.
Thí như thiện ngư giả trương mật võng ư tiểu trì, chư đại ngư giai tại võng trung, tuy dược bất năng thoát. Thử chư Sa-môn Bà-la-môn diệc vi Lục thập nhị kiến chi võng sở phú.
⸻
4. Thân Như Lai như cành xoài bị cắt
Thân Như Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến đời sống khác đã chấm dứt. Khi thân hoại, chư Thiên và loài Người không còn thấy được.
如來之身猶存,而生他之因已斷;身壞命終,天與人皆不得見。
Rúlái zhī shēn yóu cún, ér shēng tā zhī yīn yǐ duàn; shēn huài mìng zhōng, tiān yǔ rén jiē bùdé jiàn.
Như Lai chi thân do tồn, nhi sinh tha chi nhân dĩ đoạn; thân hoại mệnh chung, Thiên dữ nhân giai bất đắc kiến.
Như cành xoài bị chặt đứt, cả chùm xoài dính trên đó đều chịu chung số phận.
譬如芒果之枝既被斷絕,諸果皆隨同盡。
Pìrú mángguǒ zhī zhī jì bèi duànjué, zhū guǒ jiē suí tóng jìn.
Thí như mang quả chi chi ký bị đoạn tuyệt, chư quả giai tùy đồng tận.
⸻
5. Ānanda thưa hỏi pháp danh
Khi nghe nói vậy, tôn giả A-nan bạch Thế Tôn: “Hy hữu thay! Pháp môn này gọi là gì?”
阿難聞已白佛:「希有哉!此法名何?」
Ānán wén yǐ bái Fó: “Xīyǒu zāi! Cǐ fǎ míng hé?”
A-nan văn dĩ bạch Phật: “Hy hữu tai! Thử pháp danh hà?”
Phật dạy: “Pháp này gọi là Lợi Võng, gọi là Pháp Võng, gọi là Phạm Võng, gọi là Kiếm Võng, gọi là Vô Thượng Chiến Thắng.”
佛言:「此法名利網、名法網、名梵網、名劍網、名無上勝。」
Fó yán: “Cǐ fǎ míng Lìwǎng, míng Fǎwǎng, míng Fànwǎng, míng Jiànwǎng, míng Wúshàng Shèng.”
Phật ngôn: “Thử pháp danh Lợi Võng, danh Pháp Võng, danh Phạm Võng, danh Kiếm Võng, danh Vô Thượng Thắng.”
⸻
6. Kết kinh – một ngàn thế giới rung động
Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ. Khi kinh được thuyết, một ngàn thế giới rung động.
佛說如是,諸比丘歡喜奉行;時千世界皆大震動。
Fó shuō rúshì, zhū bǐqiū huānxǐ fèngxíng; shí qiān shìjiè jiē dà zhèndòng.
Phật thuyết như thị, chư Tỷ-kheo hoan hỷ phụng hành; thời thiên thế giới giai đại chấn động.